Chương I: Kiều tâu

Bước tới „Kiều tâu“ thật hãi hùng
PHÂN vân nửa muốn, nửa còn run
Chiến trường sanh tử … vài ba bãi
Nhịn được thì thôi, ráng tới cùng!

Chắc có nỗi niềm „Lan huệ sầu ai, lan huệ héo“ gì đó mà thằng bạn mẹ thay vì kể chuyện tiếu lâm „xỉn xỉn ngủ xập báo“ nó buồn tình đăng lên Facebook mấy câu thơ trên, rất nặng mùi „Kiều“. Kiều ở đây là chơi chữ, vì theo tiếng Hán, một trong những nghĩa của „kiều“ (橋) là „cầu“, còn tiếng Việt thì „Kiều“ là ý nói truyện Kiều, một truyện thơ của đại thi hào Nguyễn Du, „nặng mùi Kiều“ ở đây vừa có nghĩa là mang tính chất văn thơ lai láng, lại cũng có thể hiểu là có mùi „nhà vệ sinh“ (cầu tiêu).

Thế là ùn ùn nào người này kể lể đi thăm cầu „Kiều“ ở trại tị nạn bên Phi Luật Tân phải khai báo quốc tịch để được xác định tiêu chuẩn là nhận được mấy miếng giấy … chùi (không thấy kể là để chùi tay hay chùi „Kiều“), nào phân tích chữ xí xổm, xí bệt của người miền Bắc (người Nam kêu là bồn cầu), xí là bệ xí, xổm là ngồi chồm hổm, bệt là ngồi đặt mông xuống. Tự dưng nó làm mẹ nhớ những ngày hơn mấy chục năm về trước, khi bà ngoại lo tìm đường cho mẹ đi vượt biên.

Mẹ vốn sinh ra dưới một vì sao … mờ mờ (vì lý do này nên các lá số tử vi ngoại đi xin cho mẹ đều đoán … trật lất về tương lai, vận mệnh của mẹ). Bởi thế, suốt gần hai năm trời, mẹ cứ mới tuần trước nói chia tay với bạn bè, gởi gấm lại lưu bút, hình ảnh, tuần sau, chúng nó lại thấy mẹ nhăn nhở đứng trước cổng trường chờ tan học để rủ nhau đi lang thang ở hồ con rùa, tỉ tê mơ về một tương lai cũng mờ mịt như tử vi của mẹ.

Trong những lần đi vượt biên „hụt“ đó, có lần mẹ phải ra Vũng Tàu, „nằm vùng“ ở nhà một gia đình chài lưới. Sau này, mẹ mới biết là bọn lo vượt biên lấy tiền của ngoại, nhưng chúng không có tổ chức, không có ghe tàu gì cả, mà đưa hai anh em – mẹ và bác Đức – đến tạm trú ở nhà một gia đình chài lưới, chờ đi kiểu „canh me“, tức là cứ đêm đến ra bãi, thấy có tàu nào rời bến ra khơi thì „lén“ nhảy lên. May mà trong thời gian tạm trú ở Vũng Tàu không có chuyến nào ra khơi, chứ bây giờ suy nghĩ lại, dân „Sề ghềnh“ (Sài Gòn) ù ù, cạc cạc như hai anh em, chưa kịp lấy đà để nhảy lên tàu là đã bị thiên hạ lấy mái chèo gạt xuống biển rồi.

Những ngày tạm trú tại đó thật là chẳng khác gì đi cải tạo. Dân chài ăn cơm thanh đạm. Mẹ chỉ ăn nổi cơm độn khoai mì chan với tí nước rau luộc cho dễ nuốt, vì tuy bữa cơm cũng có cá, nhưng dân chài họ không biết nấu canh chua cá bông lau, không biết cá thu kho giềng, cá lóc kho tiêu, cá rô kho khế như bà cố (mẹ bà ngoại) hay nấu. Cá của họ chẳng những còn nguyên đầu đuôi, xương xẩu, mà còn tanh rình mùi … cá, có lẽ do chẳng có bỏ thêm gia vị gì. Bà cố kho cá ngon như vậy mà mẹ còn không đụng đũa đến, vì mẹ vốn cầm tinh con mèo „hen“, chỉ ăn thịt chứ không ăn cá, sợ hóc xương, ho hen thì chết. Tối đến, hôm nào không phải ra bãi „canh me“, thì mẹ phải đi ngủ theo như mấy cô con gái của gia đình chài, vì họ sẽ đi kéo lưới rất sớm, từ lúc tờ mờ sáng. Nhà ở trên dốc núi theo kiểu nhà sàn, gió cứ thổi vi vút, vương mùi … cá tanh tanh của các cô con gái nhà chài lưới ấy, chạy vào mũi „mèo hen“, làm mẹ không thể nào ngủ được. Mẹ nhớ nhà, nhớ ngoại, nhớ bà cố, và tự hứa nếu đi không thoát phải trở về, mẹ sẽ ngoan ngoãn ăn cơm với cá, dù phải nhằn từng miếng xương cỏn con còn sót lại do bà cố mắt mờ, không thấy để lọc nó ra.

Và nỗi hãi hùng nhất của mẹ là cái „Kiều tâu“. Nhà mình hồi xưa thì cầu „Kiều“ cũng giống như ở đa số các nhà khác là có cái bệ để có thể ngồi chồm hổm, một tư thế rất khó mà đọc truyện chưởng vì „ngầu lôi tăng kể“ (ngồi lâu tê cẳng). Nhưng nhà bà cố thì cầu „Kiều“ giống y như bên này, tức là bằng men trắng sang trọng, do ông cố không may mắc bịnh Polio nên một chân teo liệt, không thể ngồi „Kiều“ chồm hổm được . „Luyện chưởng“ xong chỉ cần nhấn nút một cái là nước tự động phi tang ngay sản phẩm vừa mới ra lò ở „xí bệt“, không phải khệ nệ khiêng một chậu nước để phi tang tích, mà dung tích của chậu nước thì tỉ lệ thuận với những bộ công phu hay kiếm pháp mà mẹ tu được trên cái „Kiều tâu“ „xí xổm“.

Hôm đầu tiên vừa đến là mẹ được cô con gái út của gia đình dắt ra thăm „Kiều“ rồi. Mẹ xém chết vì bị „nghẹt đường thở ngoài ý muốn“, bởi „Kiều“ là một cái lỗ đen ngòm, có đường kính khoảng 30 cm. Nói đen nhưng thật ra nó màu vàng vàng, do vô số các con bọ lúc nhúc bơi hay bò trên và chung quanh cái lỗ ấy. Mẹ đã từng đi „chồ“ (tiếng lóng của miền Nam dùng chỉ việc đi … đại tiện) ngoài đồng, ngoài bụi chuối ở Cà Mau (cũng là một trong những bến ghé trên tình sử vượt biên của mẹ), nhưng thật sự là mẹ không thể nào dám đặt hai bàn chân lên hai bên của cái lỗ này để giải bầu tâm sự. Nhìn quanh quất không thấy bụi cây nào, mẹ ngữa cổ than trời, thì không hiểu ông trời nghe thấy hay sao mà mắt mẹ đập vào rừng đào lộn hột thật xum xuê, nằm trên sườn núi. Thế là mẹ hì hục leo lên đến đoạn nhìn xuống thấy mấy căn nhà bé như trong truyện „Bạch Tuyết và bảy chú lùn“. Mẹ lựa một cây tương đối dễ trèo, âm thầm leo lên … „luyện chưởng“.

Nhờ khám phá này mà mẹ đã sống sót được hơn hai tuần ở làng chài. Hai anh em sau đó tự tìm đường ra bến xe đò về Sài gòn vì không kham nổi cảnh „thả bom trong rừng đào lộn hột“, nhưng đúng ra là không kham nổi mùi cá tanh tanh cứ quyện vào mũi.

Sau này, mẹ còn biết nhiều „Kiều tâu“ khác ở trại tị nạn cũng chẳng mấy gì làm văn mênh cho lắm, nhưng mẹ đã luyện được pháp công „Phân Phi Mộc Sơn“, nên đối với mẹ chẳng khó khăn gì để thi triển công phu ấy cả, vì trại tị nạn Galang nằm trên một hòn đảo ở Nam Dương, đường đi ra biển là những rừng cây rậm gấp mấy lần rừng đào ngày ấy.

Đọc mấy vần tâm tình của thằng bạn, mẹ chợt nhớ lại võ công ngày nào, mà do hạ sơn quá lâu, mẹ đã quên béng nó:

Phân Phi Mộc Sơn, phân phi pháp
Phân ngự kiều tâu, phân bất tồn
Tạm diễn nôm là:
Phân phóng núi rừng, phân phóng bậy
Phân ngay cầu tiêu, phân chẳng còn

„Phân Phi Mộc Sơn, phân phi pháp“ cũng có thể hiểu là tên của môn võ học của giáo phái „Kiều Tâu“, tu luyện được tại Mộc Sơn – tên một trong 5 hòn núi của Ngũ Hành Sơn (Kim Sơn, Mộc Sơn, Thủy Sơn, Hỏa Sơn, Thổ Sơn).

Nay con đã hiểu tại sao đi đâu, các nơi thanh lam thắng cảnh dành cho du khách, khách sạn, quán ăn, tiệm nước, mẹ hay đi thăm „Kiều tâu“, chụp hình bên trong, bên ngoài, một phần để „xả nước, cứu thân“, nhưng phần còn lại có lẽ do thói quen từ thuở xa xưa ấy là trước khi thăm nàng „Kiều“ phải kiểm tra trước sau, nhìn trên, ngó dưới!

Werbung

Kommentar verfassen

Trage deine Daten unten ein oder klicke ein Icon um dich einzuloggen:

WordPress.com-Logo

Du kommentierst mit Deinem WordPress.com-Konto. Abmelden /  Ändern )

Twitter-Bild

Du kommentierst mit Deinem Twitter-Konto. Abmelden /  Ändern )

Facebook-Foto

Du kommentierst mit Deinem Facebook-Konto. Abmelden /  Ändern )

Verbinde mit %s