Một lần, nhân dịp đi Paris, tôi có ghé thăm cô Nương, cô giáo dạy tôi hồi lớp Năm ở trường tiểu học Lê Quí Đôn.
May mà có vợ chồng nhỏ bạn tình nguyện chở tôi đến nhà cô chứ nếu tôi đi xe lửa RER (Le Réseau Express Régional) thì với vốn liếng Pháp văn „về chiều“ của tôi, chắc tôi sẽ không tài nào tìm ra nhà cô ở một khu cư xá rất đông dân.
Lần cuối tôi gặp lại cô cách đây phải hơn hai mươi năm. Tôi không ngờ thời gian trôi qua nhanh như vậy. Bận rộn chuyện mưu sinh, gia đình, con cái, tôi đã quên mất cô. Vì vậy, tôi rất hồi hộp khi bấm chuông nhà cô. Cô mở cửa, ôm chặt lấy tôi, hôn thật mạnh lên má, làm tôi cảm động hết sức.
Năm nay cô đã gần 90 tuổi nhưng giọng nói vẫn sang sảng như ngày nào đứng trên bục giảng. Tôi vui mừng khi biết cô vẫn khoẻ mạnh, minh mẫn.
– Cô còn nhớ em không cô?
Tôi hỏi cho có lệ vì cô đi dạy hơn ba mươi lăm năm, mỗi năm từ 40 đến 50 học sinh, làm sao cô nhớ một đứa học trò không có gì xuất sắc, lại bẵng đi bao nhiêu năm không ghé thăm cô.
Cô kể tôi nghe đủ thứ chuyện ngày xưa dưới mái trường.
Cô nhắc đến một trò nào đó mà giờ chơi thì nhảy nhót vui vẻ với các bạn cùng lứa mà cứ hễ vào lớp là mắt lại nhắm tịt, ngủ gà ngủ gật. Thế là cô bèn nghĩ ra cách bắt con bé đến giờ chơi phải ở lại trong lớp để học với cô. Cuối năm, cô giáo dạy môn Pháp văn thắc mắc là không hiểu thế nào mà cái con bé ấy cũng thi đậu lên lớp được nhỉ?
Hay chuyện cán bộ đi thanh tra lớp. Hôm đó, cô dạy môn tập đọc. Lúc cuối giờ tên cán bộ phán một câu xanh rờn giọng Bắc kỳ:
– Cô dzáo dzì mà không biết đọc!
vì hắn không nghe được cái giọng Nam thật là hùng hồn của cô, mà cho đến bây giờ, gần 90 tuổi rồi, vẫn không kém phần nào uy nghi làm học trò phải nể sợ. Cô kể tôi nghe là cô Yến phụ tá hiệu trưởng, mà sau này cô mới biết là cô Yến „nằm vùng“, có hỏi:
– Cô Ba nghĩ sao khi bị cán bộ trung ương phê bình như vậy?
Thì cô chỉ nói:
– Bói ra ma, quét nhà ra rác mà chị!
Một câu trả lời đầy ý nghĩa, sâu sắc. Năm ấy, „cô dzáo dzì mà không biết đọc“ của tôi vẫn được tuyên dương là giáo viên „tiên tiến“ như thường.
Lớp 5/6 – Niên khoá 1973–1974
Tôi biết cô được đồng nghiệp rất ư là quí mến.
Có lần cô Xuân Lang hỏi cô:
– Chị Ba ra làm phụ tá hiệu trưởng nhé?
Tôi hỏi sao cô từ chối và chấp nhận mãi mãi là một giáo viên tiểu học?
Cô cười rổn rảng nói với tôi rằng:
– Cô làm dâu „năm mươi“ họ đã đủ mệt rồi!
Tôi được dạy dỗ là phải biết „tôn sư trọng đạo“, xem thầy cô như cha mẹ, chứ chưa bao giờ nghe một người giáo viên nào tự cho mình là kẻ hằng năm đi làm dâu phục vụ bốn, năm mươi học sinh cả.
Thế mới biết cô tận tụy, thế mới biết cô yêu nghề, yêu học trò và lúc nào cũng mong muốn các em nên người.
Trên đường về tôi cảm thấy thật hãnh diện được là học trò của cô. Tôi ôm vai nhỏ bạn:
– Tụi mình già sẽ „chèo queo“, không ai nhớ, không ai đến thăm, còn cô có cả một bầu trời hạnh phúc mày ạ!
Ngày xưa hay có câu „bán cháo phổi“ để chỉ nghề của những giáo chức, phải nói sa sả tối ngày để dạy học trò.
Im April 1980 hatte deine Großmutter eine Möglichkeit gefunden, wie ich auf dem Seeweg über die Grenze aus dem Land flüchten konnte. Gegen eine Anzahlung von zwei und die restlichen drei Goldbarren vor dem Einsteigen in das Boot durften ich und deine Oknel Hiệp und Đức mit dem Bus nach Sóc Trăng, eine Stadt am Mekong-Delta, anreisen und dort einer Gruppe weiterer vietnamesischen Flüchtlinge anschließen.
Um nicht aufzufallen, wurde uns gesagt, dass wir uns tarnen sollten, um wie einheimische Dorfbewohner auszusehen. Wir sahen eher wie Bettler aus, das heißt, wir trugen lädierte Kleidung mit vielen Flicken, etwas Geld in der Tasche und nur einen Satz Wechselkleidung als Gepäck. Wenn ich jetzt zurückblickte, fand ich, dass es eine völlig sinnlose Tarnung war, denn egal wie wir uns bemühten, aufgrund unseres Aussehens, unseres Ganges, unserer Sprechweise, unseres Akzents usw. ließ es sich sehr leicht erkennen, dass wir aus der Stadt kamen.
Wir wurden in Sóc Trăng am Busbahnhof von ein paar Männern abgeholt und zu einem provisorisch gebauten Haus mit Lehmwänden gebracht. Sie gaben uns etwas zu essen und zu trinken, ließen uns im Haus sitzend und wartend, bis es dunkel wurde. Dann wurden kleinere Gruppen gebildet und sie gaben uns per Handzeichen zu verstehen, dass wir ihnen folgen sollten. Niemand wagte es, mit irgendjemandem ein Wort auszutauschen, weil man uns davor gewarnt hatte, dass wir als „Saigonnaisen auf der Flucht aus dem Land“ enttarnt würden.
Ich habe mein Zeitgefühl völlig verloren. Meine Blicke klebten an Onkel Hiệp’s Ferse, teils aus Angst, sich zu verlaufen, teils, weil die Umgebung von lauten Bäumen und Flüssen umgeben waren, und ich nicht sehen konnte, wo der Weg war. Es war so schwer, auf das zerbrechliche, wackelige Boot am Flussufer zu klettern, nicht so leicht und sicher wie damals bei unserem Urlaub in Hội An, wo wir in das Fischerboot für Touristen stiegen. Ein Junge flehte Onkel Hiệp an, seine Schwester auf dem Rücken zu tragen, weil sie behindert war und nicht waten konnte.
Kurz vor der Meeresmündung war die Gruppe erneut gezwungen, zu waten, um auf ein größeres Boot zu klettern. Frauen und Kinder wurden in das Unterdeck getrieben, Männer drängten sich auf dem Oberdeck zusammen. Ich schätzte, dass mehr als fünfzig Personen wie Sardinen auf dem Boot gepresst wurden. Auf dem von den Cap Anamur Mitarbeitern aufgenommenen Foto könnte man meinen, dass das Boot etwa 10 Meter lang war. Ich konnte die stickige Luft im unteren Deck nicht ertragen, daher kletterte ich auf das Oberdeck und blieb am oberen Ende des Bootes.
Ich verließ mein Heimatland und hinterließ Familie, Verwandte, Freunde, Erinnerungen …, fuhr ohne Ziel auf das offene Meer hinaus und nahm nur einen Traum von einer freien, strahlenden Zukunft mit. Ich weinte nicht, aber ich fühlte, wie mein Herz voller Trauer war, als die Entfernung zwischen dem Boot und dem Festland immer größer wurde, bis rundherum ein riesiger, schwarzer Ozean war, kein Mond, nur funkelnde Sterne im Himmel.
Im März gehen alte Frauen auf hoher See.
Diese vietnamesische Redewendung besagt, dass der dritte Monat des Mondkalenders die Jahreszeit ist, wo das Meer sehr ruhig und es kaum zu befürchten ist, dass Wellen das Schiff kentern lassen könnten, was auch wahr war. Das Meer war ruhig wie ein Schwimmbecken ohne Besucher, wir konnten bis zum fernen Horizont geradeaus blicken. Zum ersten Mal in meinem Leben verstand ich, was „das Leben hängt an einem dünnen Seidenfaden“ bedeutete. Schon bei einer leichten Welle würde dieses Boot, so winzig und zerbrechlich wie ein Blatt im Ozean, kentern. Man kann tausende Goldmedaillen im Freistil-, Kraul-, Schmetterlings-, Rückenschwimmen etc. gewonnen haben, gegen das Meer war man machtlos und ich wäre eine köstliche Beute für die Fische, die sorgenfrei auf der Meeresoberfläche planschten.
Von Zeit zu Zeit bekam jeder Bootsinsasse etwas zu essen. Ich konnte mich nicht genau erinnern, ob es kalter Reis oder trockenes Brot war. Ich kaute sehr lansgsam und sparsam. Die Trinkportion war ein Schluck Wasser aus dem Deckel eines leeren 10-Liter-Ölkanisters aus weißem Plastik, der – nachdem das gesamte Öl vor der Abfahrt in den Schiffsmotor entleert wurde – mit brackigem, trübem Flusswasser gefüllt war. Ich hatte das Gefühl, dass ich fauliges, öliges Wasser trank. Dieses Gefühl hat mich bis heute verfolgt. Jedes Mal, wenn ich den scharfen Geruch von Aprikosenblättern in manchen Gerichten entdeckte, der wie übles Öl riecht, erinnere ich mich an die Wasserschlückchen auf diesem Schiff.
Auch wenn wir wenig Wasser tranken, arbeitete der Körper fleißig daran, den Urin zu filtern und auszuscheiden. Die Männer hatten es einfach, sie erleichterten sich einfach ins Meer. Ich, wie die anderen Frauen auch, hatte „für kleine Mädchen“ die einzige Möglichkeit, sich an Ort und Stelle zu erledigen. Aber der Geruch von üblem Öl war zu einem natürlichen EdT (Eau de Toilette) geworden, der so dominant war, dass der Ammoniakgestank nicht wahrnehmbar schien. Es könnte aber auch daran liegen, dass mein Geruchssinn mit zunehmender Intensität der Sonneneinstrahlung allmählich gelähmt wurde.
Wenn ich zu müde war, klammerte ich mich mit einer Hand an einen Haken an Deck, damit wenn ich einschlief, nicht über Bord rollte. Weißt du, meine alleliebste Tochter auf der ganzen Welt, die Menschen haben einen angeborenen Überlebensinstinkt. Immer wenn ich kurz vor dem Einschlafen war, und meine Hand sich vom Haken lockerte, wachte ich plötzlich auf, oder jemand berührte mich, weil das Boot hin und her schaukelte.
So trieb das einsame Boot zwei Nächte lang auf dem Meer. Am dritten Tag, gegen Mittag, tauchte weit weg am Horizont plötzlich ein dunkler Fleck auf. Alle Bootsinsassen an Deck, mich inbegriffen, standen auf und schauten zu, bis der schwarze Fleck größer wurde und eindeutig wie ein Hubschrauber aussah, der direkt auf das Boot zuflog. Ein Mann sprach über den Lautsprecher etwas auf Englisch. Mein Englisch reichte damals gerade sowie z.B. „How are you?“ „I’m fine, thank you“, aber ich habe vage verstanden, dass sie uns retten würden, und wies unseren Bootsfahrer an, wie er das Boot mit sicherem Kurs schrittweise an das Frachtschiff heranzuführen hatte, um nicht von den Bugwellen gekentert zu werden. Im Vergleich zu unserem war das Cap Anamur Schiff eine Riese.
Als sich das kleine Boot an der Seite des Frachtschiffes befand, ließen die Matrosen – die meisten von ihnen Filipinos – Seile mit Planen herab, um Kinder und Frauen hochzuziehen, die zu schwach waren, über die Strickleiter auf das große Schiff zu erklimmen.
Boat People wurden 1980 von dem Frachtschiff Cap Anamur aufgenommen / Archivbild 80er
Während der Rettungsaktion der Frauen und Kinder holten die Bootsbesitzer Kokosnüsse aus ihrer Kajüte heraus, hackten sie und tranken genüsslich die Kokosmilch. Ich sah Wassermelonen, Essen und Getränke, aufgestapelt in ihrer Kabine. Mein Herz raste vor Wut, als ich mich an das trübe, brackige und nach üblem Öl riechende Flusswasser erinnerte. Doch dieser Zorn währte nur kurz, denn die Matrosen gaben mir ihr ein Zeichen, dass ich an der Reihe sei, sich auf die Strickleiter vorzubereiten.
Auf dem Frachtschiff angelangt, bekam ich Wasser zu trinken und eine heiße Suppe. Ärzte und ehrenamtliche Helfer und Helferinnen kümmerten sich fürsorglich um uns. Ich schaute sie an und dachte, sie wären Engel ohne Flügel, nur mit zwei liebevollen Händen, die sich öffneten, um mich im Paradies auf Erden willkommen zu heißen. Die Zeit auf dem Cap Anamur – nachdem wir gerettet wurden, kreiste das Schiff noch einige Tage auf das Südchinesische Meer herum, um viele weitere Boote zu retten – war die unbeschwerteste Zeit meines Lebens, ohne Angst vor Hunger, Durst oder Tod, ohne Sorgen, tagsüber toben, herumspringen auf Deck, Schwärme von silbernen Seebrassen im Sonnenlicht beobachten, nachts das Lichtspiel bewundern, wie Tausende von hell leuchtenden Sternen auf dem dunklen Ozean sich spiegelten. Ich fühlte mich wie ein Astronaut, der im Weltraum das Universum bereiste. Eine glänzende Zukunft wartete auf mich irgendwo in einem fernen Land.
Nachdem das Schiff Cap Anamur noch ein paar weitere Boote aufgenommen hatte, und es keinen Platz mehr gab, um weitere Menschen zu unterbringen, lag es Anker im Hafen von Singapur. Wir warteten auf die Überfahrt in das Flüchtlingslager Galang auf den indonesischen Riau-Inseln, wo weitere Formalitäten zur Aufnahme in ein Drittland zu erledigen waren.
Das war die Geschichte deiner Mutter von der Flucht aus Vietnam, nichts Besonderes, Aufregendes oder Trauriges wie viele andere tragische Geschichten über das Schicksal der „vietnamesischen Boat People“ in den 80er Jahren. Du kannst sie deinen Freunden, Kindern und Enkelkindern weitererzählen, wenn sie über deine Herkunft fragen, eine gelbhäutige Person mit platter Nase, geboren und aufgewachsen in Deutschland. Oder später, vielleicht auf einer Kreuzfahrt im Pazifischen Ozean, nachts, wenn du an Deck sitzest und Tausende von Sternen am Himmel leuchtend betrachtest, wirst du dich daran erinnern, dass deine Mutter – auf der Flucht vor dem Kommunismus, auf der Suche nach Freiheit – das Gleiche getan hat, meine allerliebste Tochter auf der ganzen Welt!
Tháng 10 năm 2000, mẹ chuyển sang debis, làm Project có liên quan đến công ty Cablecom (Telecommunication’s provider) của Thụy sĩ, khá bận rộn, thường phải đi công tác liên tục, ăn uống thất thường, cho nên thỉnh thoảng khi có triệu chứng buồn nôn, mẹ cứ nghĩ bao tử tiết ra nhiều chất Acid vì bị căng thẳng từ sức ép của công việc.
Một hôm, tự dưng mẹ lăn quay ra bất tỉnh. Lúc mở mắt ra, mẹ vội vã đến bệnh viện Marienhospital gần nhà cũ của mình ở đường Bismarckstrasse. Cô nhân viên phòng làm thủ tục nhập viện hỏi qua loa vài dữ kiện cá nhân như tên chi, bảo hiểm y tế nào, triệu chứng bệnh ra sao v.v. Sau khi vặn vẹo chán chê, cô ta điềm nhiên:
– Rất tiếc hôm nay nhà thương không còn phòng trống, sáng mai bà quay trở lại nhé?
Đang ngậm ngùi dợm chân đi ra thì mẹ bỗng buồn nôn không kìm được, ói tung tóe ra sàn, màu đỏ như máu. Cô nhân viên nhảy dựng lên, hoảng hốt cầm điện thoại cầu cứu. Ngay lập tức có một anh y tá xuất hiện, xốc mẹ lên một chiếc xe lăn và đẩy vào phòng cấp cứu.
Bác sĩ gật gù kết luận màu đỏ ở chỗ nôn mửa của mẹ là từ cà chua và chẩn đoán mẹ bị ngộ độc thực phẩm. Do đã tối khuya, mẹ được phép ở lại nhà thương, hôm sau mới phải xuất viện. Sáng hôm sau, khi đi vệ sinh, mẹ hốt hoảng sợ hãi giật sợi dây cứu cấp để gọi y tá khi thấy bồn cầu đen ngòm như nước cống. Kể từ lúc đó mẹ phải trải qua nhiều thử nghiệm tại bệnh viện để chẩn đoán bệnh lý. Mẹ bị đẩy đi soi bao tử, soi ruột, soi CT (Computertomographie) mà trước khi soi phải uống một dung dịch phản quang rất khó nuốt, cứ uống vào một ngụm thì chỉ muốn nôn ọe ngay lập tức. Bác sĩ cho biết mẹ có một cục bướu trong bao tử cần phải cắt nó đi. Do họ không thể chẩn đoán đó là bướu lành hay dữ, đụng vào nó có lây lan sang những tế bào khác hay không, nên khó dùng phương pháp thọc dây vào cuống họng và cắt nó từ bên trong, bác sĩ hỏi mẹ có cho phép họ giải phẩu mổ bụng ra không. Thật ra, đó là một câu hỏi cho „đúng lệ làng“, vì sau hai tuần chỉ sống bằng truyền dịch nước biển và liên tục bị đẩy đi xét nghiệm từ phòng này sang phòng khác, mẹ chỉ biết ngoan ngoãn ký giấy đồng ý.
Lúc mở mắt tỉnh dậy sau cuộc giải phẩu, bà bác sĩ nói với mẹ:
– Tôi có hai tin, một tốt và một xấu. Tin tốt là cuộc giải phẩu thành công tốt đẹp, tin xấu là cục bướu ấy thuộc loại dữ, một cục bướu ung thư.
Bà bác sĩ an ủi:
– Theo kết quả xét nghiệm thì ung thư này của bà ở giai đoạn mới chớm, may mà được phát hiện sớm. Chúng tôi đã cẩn thận cắt đi khoảng một phần ba bao tử rồi.
Tuy không phải xạ trị nhưng mẹ vẫn bị giữ lại ở bệnh viện để bác sĩ theo dõi và y tá chăm sóc vết mổ. Ban ngày mẹ đọc sách, đọc truyện, nói chuyện với các bệnh nhân khác nên cũng khuây khỏa. Buổi tối, khi bệnh viện chìm trong bóng đêm im lặng thì mẹ cứ thao thức, hết nghĩ gần lại lo xa, không biết sức khỏe sau này ra sao, lỡ có mệnh hệ gì thì con sẽ bơ vơ, tương lai con chẳng biết đi về đâu? Nước mắt cứ thế chảy ra không cầm lại được, lòng mẹ buồn chất ngất.
Mẹ không nhớ bao lâu sau khi mổ thì họ rút ống truyền nước biển, nhưng mẹ nhớ mãi cảm giác khi được húp thìa nước súp đầu tiên sau thời gian dài bao tử không hoạt động. Nước súp trong vắt, không có tí cái nào, chỉ có những váng mỡ óng ánh mà sao nó ngon vô cùng, ngon hơn tất cả những gì mà mẹ đã từng nếm qua, cho mẹ một cảm giác hồi sinh sau ca mổ lớn thứ ba với gây mê toàn phần trong cuộc đời của mẹ – lần đầu là mổ ruột dư và vùng khoang bụng dưới do máu tràn ra, lần thứ hai là mổ đẻ.
Khoảng 4 tháng sau thì mẹ đi làm trở lại. Công việc, gia đình, bận bịu lo toan hàng ngày giúp mẹ dần dần quên căn bệnh quái ác, tuy mẹ vẫn phải đi soi bao tử và xét nghiệm máu hằng năm để kiểm tra xem bệnh ung thư có tái phát hay không. Có lần ông bác sĩ hỏi mẹ:
– Bà đang bị „Stress“ phải không, bao tử có nhiều chất át-xít.
Mẹ gật đầu;
:
– Tôi có Stress với đồng nghiệp trong công việc ông à!
Ông bác sĩ giơ một chân lên giống như dáng con chó đang „phóng uế“:
– Quên họ đi, hãy tận hưởng mỗi ngày mới trời ban cho, vì đúng ra là với căn bệnh ung thư kia thì giờ này bà đã „mồ xanh cỏ“ rồi!
Khi nào cảm thấy bất lực, gặp chuyện u sầu hoặc thất bại mẹ lại nhớ đến cái dáng đứng „chó đái“ và lời khuyên của ông Niddegen hôm ấy.
Wunder beginnen dann, wenn wir unseren Träumen mehr Energie geben als unseren Ängsten (Autor unbekannt).
Điều kỳ diệu bắt đầu khi ta dành nhiều năng lượng cho ước mơ hơn là cho nỗi sợ hãi (Vô danh).
Câu này thật là đúng con ạ, đứa con gái đáng yêu nhất trên đời này của mẹ!
An einem schneebedeckten Winternachmittag landete Ende 1980 der gechartete Flug aus Jakarta auf dem Flughafen Hannover. Unter den Passagieren, alle „boat people“ Flüchtlinge, waren ich, deine Onkel Hiệp und Đức. Die Schneeflocken waren nur ein wenig größer als ein Regentropfen, aber das reichte aus, um mich ins Erstaunen zu versetzen, denn ich hatte noch nie zuvor Schnee gesehen. Als ich ein Kind war und im Französischunterricht ein Haus mit Schornstein und fallendem Schnee zeichnen musste, habe ich mit dem Bleistift den Himmel mit einer Schicht aschegrauer Farbe bedeckt, dann mit der Radiergummispitze des Stifts vorsichtig die Kohleschicht ausradierte, sodass kleine weiße Kreise zum Vorschein kamen. So entstand die Winterszene „Tombe la neige“ wie aus dem Lied von Adamo, der berühmte italienisch-belgische Sänger:
Tombe la neige
Tu ne viendras pas ce soir
Tombe la neige
Et mon coeur s’habille de noir
So stellte ich mir den Schnee vor, und zwar entstanden durch Bleistift und Radiergummi.
Die Flüchtlingsgruppe, größtenteils Jugendliche ohne Eltern, wurde in einen riesigen Fernreisebus umgeladen und direkt zum Durchgangslage Friedland gebracht. Auf der ganze Fahrt tauschten wir drei kein einziges Wort miteinander aus, drückten nur unsere Nasen gegen die Autoscheibe und betrachteten, eher bewunderten, die verschwommene Szene hinter Schnee und Nebel.
Auf dem Refugee Camp Galang – Pulau Galang gehört zu den indonesischen Riau-Inseln – nahm ich an einem Deutschkurs einer Schweizerin teil, die einige Stunden pro Woche ehrenamtlich arbeitete. Jedoch konnte ich nur „Guten Tag“ murmeln als eine Nonne mit einem breiten Lächeln der Flüchtlingsgruppe entgegenstürmte und auf Deutsch prasselte. Mein Kosename zu Hause war „tí Quắt“, also die „schrumpfende Kleine“, daher war die gutmütige deutsche Nonne mit ihrer massigen, übergroßen Figur in ihrem ebenso weiten schwarzen Klostergewand sehr furchterregend. Ich hatte das Gefühl, dass sie magische Stiefel trug, die ihr Flügel verliehen, denn ich musste wirklich „rennen“ um mit ihr Schritt zu halten. Für mich war alles im Lager groß, fremd aber zugleich auch schön, besonders das Bett mit seinen bauschigen Decken und Kissen, die immer nach frischer Seife dufteten, denn in den letzten acht Monaten hatte ich mich an das harte Holzbett des Flüchtlingslagers Galang oder an die dünne Schaumstoffmatratze auf dem Frachtschiff Cap Anamur gewöhnt. Das Seltsamste war die Abendmahlzeit. Es gab Schwarzbrot, das ich noch nie gegessen hatte.
In der ersten Nacht in Friedland bedeckten wir drei unsere Köpfe mit Decken, um der Kälte zu entkommen. Ich vermisste mein Zuhause sehr. Ich sehnte mich nach der Hitze von Saigon und nach dem Trubel des Kreisverkehrs „Nguyễn Huệ“ im Zentrum der Hauptstadt. Wie sehr sehnte ich mich nach einer Schüssel dampfender Nudelsuppe „Phở“. Das flackernde Feuer des Ölofens im Zimmer ließ mich in dieser Nacht nicht schlafen.
Übergangslager Friedland
Bis auf einem Tag, an dem im ganzen Lager durch Feueralarm ein Chaos herrschte, weil ich meine Kleidung auf dem Ölofen trocknete, die danach Feuer fing, war der Aufenthalt in Friedland genau das, was sein Name beschreibt: ein friedliches Land. Ruhig. Monoton. Wir drei – und die anderen vietnamesischen Flüchtlinge auch – frühstückten jeden Morgen und gingen dann zum Deutschunterricht. Nach dem Mittagessen gingen die meisten – darunter auch deine beiden Onkeln – aus Gewohnheit (wir, Vietnamesen pflegen auch Siesta am Nachmittag zu halten) ins Bett und deckten sich zum Schlafen mit Decken zu, aber vielleicht auch weil „voller Bauch studiert nicht gern“. Es gab nichts außer Kälte und grauem Himmel. Nach dem Abendessen wiederholte sich das „Ins-Bett-Gehen-Und-Decken-Sich-Zum-Schlafen-Zu“, denn im Fernsehen war alles auf Deutsch. Es klang wie das Geräusch eines rumpelnden und polternden Zuges, weik ich kein Wort verstanden habe.
Ich blieb nur kurze Zeit in Friedland und wurde dann in das Lager Nazareth in Norddeich-Norden verlegt, eine kleine Stadt nahe der Nordseeküste. Der Wind pfiff mir um die Ohren. Obwohl ich einen Parka bekam, eine Art Jacke mit sehr dickem Futter, fror ich wie ein Schneider jedes Mal, wenn ich aus dem Haus ging. Ich fürchte mich nur vor der Kälte. Jeden Tag musste ich mindestens dreimal gegen sie kämpfen, denn obwohl der Bungalow, in dem wir drei untergebracht waren, auch eine Küche hatte, fanden alle Mahlzeiten, Aktivitäten, Deutschunterricht, die Sonntagsmorgenmesse usw. im Hauptgebäude in der Mitte des Lagers statt.
Nazareth mit den Hexagon-förmigen Bungalows
Nazareth war für mich sehr öde, nichts los. Erinnern du dich als wir den Sommerurlaub an der Nordsee verbrachten und bei dieser Gelegenheit einen Abstecher nach Norddeich gemacht haben? Du jammertest:
– Sollte es ein Ferienort sein, Mama? Hier gibt es nichts.
Genau aus diesem Grund freuten wir uns jedes Mal riesig, wenn ein Ausflug zum Stadtzentrum organisiert wurde, oder wir drei, ab und zu, den Deutschunterricht schwänzten und per Anhalter fuhren, also am Straßenrand mit dem Rücken zur Fahrtrichtung standen und mit hochgehaltenen Daumen gestikulierten, um vorbeifahrende Autos zum Anhalten zu bewegen, damit sie uns nach Norden Zentrum mitnahmen. Ich war glücklich wie bei unserem Neujahrsfest (nach dem Mondkalender), da ich die viele Lichter der Stadt sehen konnte, besonders zu Weihnachtszeit. Jedes Geschäft sah hell und luxuriös aus, mit überfüllten Vitrinen mit Waren, Süßigkeiten und Geschenken.
Die Deutschlehrerin war auch nicht weniger „riesig“ als die Nonne im Durchgangslager Friedland. Ihre Stimme war laut und ihr Lachen glockenhell. Vielleicht fiel mir deshalb das Deutschlernen leicht, da sie jedes Wort klar und deutlich aussprach.
Die Lehrerin:
– Die Frau kauft Saft.
Onkel Đức war sehr humorvoll und wiederholte:
– Đi phao cầu xập (was auf Deutsch übersetzt bedeutet: Nimm Rettungsring, Brücke kaputt).
Das Lustigste war ein Mädchen, das im Unterricht neben mir saß und Wörter mit Anfangskonsonanten „n“ als „l“ aussprach und umgekehrt.
Die Lehrerin:
– Gute Nacht
Das Mädchen:
– Guốc lắc (klingt wie „Good luck“ auf Englisch)
Die Lehrerin:
– Nein, nein, nicht „good luck“, GUTE NACHT!
Das Mädchen:
– lích lai, lắc (nicht Nein, Nacht)
Nach dem Unterricht erklärte ich der Lehrerin auf Englisch, dass in bestimmten Gegenden in Vietnam „n“ und „l“ vertauscht ausgesprochen wurden. Sie lachte herzhaft, wieder glockenhell, und erzählte mir – natürlich auf Englisch, denn mein Deutsch war damals nur so gut wie „Nimm Rettungsring, Brücke kaputt“ – dass sie auch Chinesen unterrichtete, die das „r“ wie „l“ aussprechen, wie etwa „Flüh-ling-lo-le“, und sie brachte mich auch zum Lachen. Ich habe bei ihr nicht nur Deutsch gelernt, ich konnte mit ihr mein Englisch mit solchen „Small-Talk-Geschichten“ verbessern.
Die Zeiten im Übergangslager Nazareth gehörten zu den besten Zeiten meines Lebens fernab der Heimat. Nur Essen, Schlafen und Deutschlernen. Jede deutsche Lektion brachte mich meiner zweiten Heimat ein Stück näher. Ich lernte „Wie viel kostet es bitte?“. Ich wusste zu antworten woher ich kam und konnte wie ein Deutscher ausdrücken:
– Danke schön, wünsche ich Ihnen auch.
Ich verließ Nazareth an einem strahlenden Sommertag. Die Sonne schien hell in das Fenster des Fernreisebusses. Herr Roman, der Leiter von Nazareth, Herr Phúc, der Dolmetscher, die Deutschlehrerin und das Küchenpersonal winkten freundlich zum Abschied. Ich spürte, wie mein Herz für ein Bruchteil von Sekunden plötzlich schmerzte, als hätte ich gerade etwas sehr Vertrautes zurückgelassen, obwohl keiner der Menschen dort, die mir zuwinkten, meine Verwandte waren, oder denselben Nachnamen wie ich hatten. Das Gepäck, das sie für mich mit auf dem Weg gaben, war, neben einer bescheidenen Menge Deutsch, ihre Herzlichkeit, die bis heute in meiner Erinnerung bleibt.
Die tropische „süße Sternfrucht“ in meiner Heimat gibt es hier in Deutschland nicht. Ich habe noch nie eine reife, süße Sternfrucht gegessen, nur grüne, sehr sauer. Aber ich habe hier süße Äpfel, süße Birnen, süße Weintrauben und süße Kirschen gegessen.
Đỗ Trung Quân schrieb in seinem Gedicht:
Quê hương là chùm khế ngọt
Cho tôi trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
Die Sternfrucht
Heimat ist der Sternfruchtbaum
Deren Beeren so schön wie ein Traum
Heimat ist der vertraute Schulweg
Wo der gelbe Schmetterling Dich jeden Morgen neckt
Für mich würde das Gedicht so lauten:
Heimat ist der Apfelbaum
Deren Früchte so süß wie ein Traum
Heimat ist der vertraute Schneeweg
Wo die weiße Flocke Dich jeden Morgen neckt
Ich fragte mich, ob der Dichter Đỗ Trung Quân die Gefühle eines Flüchtlings wohl versteht.
Tôi học trường Lê Quí Đôn từ năm lớp một, niên khoá 1969–1970, đến năm lớp mười.
Tôi còn nhớ là hồi đó muốn vào trường Lê Quí Đôn thì phải qua một kỳ thi tuyển kiểu trắc nghiệm IQ (Intelligence Quotient, chỉ số thông minh). Tôi chỉ nhớ là hôm đó ba tôi chở tôi đến trường Lê Quí Đôn để dự kỳ thi tuyển vào lớp một. Tôi được các cô dắt vào một phòng thuộc khu tiểu học của trường, hình như là vô cổng phía đường Lê Quí Đôn. Tôi không nhớ trong đám con nít loai choai đó thì những cô cậu tí hon này ai về sau cùng học chung với tôi vì lúc đó tôi rất hồi hộp. Từ cả mấy ngày trước tôi đã được ba mẹ tôi kèm … kẹp làm các bài trắc nghiệm mẫu với hi vọng có nhiều cơ hội trúng tuyển hơn. Phải kể thêm rằng trường Lê Quí Đôn là một trong những trường dạy cả hai chương trình Pháp và Việt, nhưng nghiêng về tiếng Việt hơn, khác với các trường như Couvent, Saint-Ex, Marie-Curie. Vì trong gia đình tôi, chỉ có ông ngoại là biết tiếng Pháp, còn ba mẹ tôi đều học sinh ngữ chính là Anh văn, nhưng vì nể ông ngoại nên ba mẹ đồng ý cho tôi học trường có dạy tiếng Pháp. Có lẽ vì lý do đó mà ba mẹ tôi chọn trường Lê Quí Đôn, có tiếng Pháp nhưng không … nhiều lắm để còn có cơ hội …. kiểm soát trình độ học vấn của tôi.
Hình cổng trường Lê Quí Đôn do thầy Tam Nhiều vẽ
Trở lại với việc thi tuyển thì hôm đó tôi quá hồi hộp nên chỉ còn nhớ mỗi một bài gì có nhiều vòng tròn to nhỏ khác nhau mà mình phải xếp nó vào từng nhóm tương tự như một nhóm hình mẫu đưa ra. Có lẽ đó là bài … khó nhất đối với tôi nên nó in sâu vào trí nhớ … kém cỏi của tôi, bởi vì tôi rất dốt … logic. Một người bạn kể lại, bài khó nhất đối với bạn ấy là hồi đó Lê Quí Đôn không biết thế nào mà lại có những câu như vẽ thêm khói hay ống khói trên một căn nhà. Mình là con nít Việt Nam, đâu phải Tây con đâu mà có khái niệm về ống khói, nên bạn ấy … mù tịt. Tôi cứ nghĩ mình chắc không đậu nổi vào trường Lê Quí Đôn và đã tự vẽ ra một tương lai … đen tối khi phải học ở Regina Pacis, một trường dòng nữ tu ở gần nhà tôi.
Hôm đi xem kết quả là ngày mà ba tôi mỗi lần nhắc đến hay đùa gọi là „song hỉ“ vì cả hai cha con đều có tên trong bảng ghi danh sách thí sinh trúng tuyển. Tôi được vào học trường Lê Quí Đôn, ba tôi thi đậu đại học Luật Khoa. Số ba tôi hơi kém may mắn vì ba tôi và ông nội cũng vượt biên từ Bắc vào Nam. Ông nội tôi không được di cư chính thức vào năm 1954 theo „Chiến dịch Con đường đến tự do“ (Operation Passage to Freedom) mà lúc đó ông nội bị giam ở trại tù Lý Bá Sơ vì tội làm … địa chủ. Nội trốn ra tù và chỉ mang được ba tôi đi theo nên khi vào trong Sài Gòn, hai cha con phải sống rất vất vả. Ba tôi vừa đi học, vừa đi làm nên bao giờ cũng ì ạch theo sau bạn bè, không có cả thì giờ để đi … cua gái. Ba tôi lấy mẹ tôi do sự mai mối của bác tôi, ông làm trong bệnh viện nơi ba tôi làm thêm buổi tối, thấy ba tôi cần cù nên „giới thiệu“ ba tôi với … ông ngoại tôi. Ông ngoại „chấm“ ba, có lẽ vì chỉ có ba tôi mới có thể đem lại hạnh phúc cho mẹ tôi, người … chẳng biết làm gì hết.
Tôi lại đi xa quá rồi.
Hôm biết tôi được trúng tuyển, hai cha con đi ăn kem Brodard ở đường Nguyễn Huệ. Đó là ngày vui nhất đời tôi. Sau này các em tôi không đứa nào thi đậu vào Lê Quí Đôn cả, mặc dù tụi nó học giỏi hơn tôi, năm nào cũng lãnh phần thưởng ưu hạng (nếu trong toàn năm học, tháng nào bạn cũng được xếp nhất lớp thì cuối năm sẽ được lãnh phần thưởng ưu hạng). Còn tôi, năm „oách“ nhất được xếp hạng nhì là … chấm hết. Vậy chứ cái hạng nhì, hay hạng ba, hay bất cứ hạng nào của tôi cũng đều được coi là hạng … nhất hết (tội nghiệp cho mấy đứa em tôi bị … thiên vị). Thế mới biết, được là „học sinh Lê Quí Đôn“ có giá trị tầm cỡ nào.
Lãnh phần thưởng, lớp 4, hè 1973
Tôi vào học lớp 1/6, lớp lẫn lộn con trai, con gái và cũng hay được xếp vào lớp học … bê bối (một từ đồng nghĩa với … dốt) nhất. Nhưng đối với tôi, cái lớp „hổ lốn“ này đem lại cho tôi nhiều kỷ niệm đáng nhớ.
Lớp 1/6 – Niên khoá 1969–1970
Sau này, qua lời kể lại của một người bạn, tôi mới biết là chia lớp học ra sao. Đại khái như vầy: lúc thi vào tiểu học Lê Quí Đôn thì mỗi bé dự thi phải làm bài và được chấm điểm. Khi phân lớp, bé được điểm cao nhất học lớp 1/1, bé hạng nhì học lớp 1/2, bé hạng ba học lớp 1/3, cứ như vậy vòng vòng rồi trở lại, mục đích là để cho tất cả các lớp sẽ có trình độ trung bình tương đương như nhau. Ngoài ra, mỗi lớp cũng phải có một số học sinh khá giống nhau. Nhưng vì phải chia lớp con trai và con gái nên đôi khi cũng cần “nhảy“ hàng, và vì số học sinh nam và nữ không quân bình (có lẽ là con trai nhiều hơn?), nên cuối cùng cũng phải có một lớp gồm cả trai và gái. Cũng theo như lời người bạn kể thì năm ấy, bé đậu hạng nhất là một cậu, còn bé đậu hạng nhì là một cô, nhưng ban Giám hiệu ưu tiên cho các … „ladies“ nên lớp 1/1 là lớp con gái. Anh chàng đậu đầu lại học lớp 1/2. „Ladies first“ không phải chỉ riêng trường Lê Quí Đôn mà các trường khác của miền Nam cũng đều làm như vậy cả. Đây là tập quán của Pháp mà hệ thống giáo dục miền Nam vẫn theo. Khi nào mà ba, bốn học sinh đậu hạng nhất đều là con trai hết thì lớp 1/1 mới là lớp con trai, còn nếu hạng nhất là con trai mà hạng nhì là con gái thì lớp 1/1 sẽ là lớp con gái.
Tôi học lớp 1/6, nhưng không vì thế lấy làm buồn. Cái lớp 1/6 hằm bà lằng xá cấu này có nhiều chuyện vui mà khi nào rảnh tôi sẽ kể cho các bạn nghe. Theo tập quán Pháp thì trong cái lớp hỗn tạp – hỗn … độn và hỗn … láo thì đúng hơn – con trai, con gái này, nữ sinh sẽ ngồi bàn trước, còn các cậu thì phải ngồi bàn sau, trừ phi nếu số nam và nữ tương đương thì có thể chia ra mỗi bên ngồi một nửa lớp.
Tôi còn giữ vài tấm hình chụp của lớp. Trong đám ấy, tôi chỉ còn liên lạc được với vài bạn mà thôi vì sau năm 1975, chúng tôi một phần bị chia ra các lớp khác nhau, nhưng phần đông là theo gia đình đi vượt biên. Tôi vẫn mong có ngày được gặp lại tất cả các bạn để cùng nhau nhớ lại một đoạn đời thời học trò … huy hoàng của tôi.
Hôm nay chủ nhật 12-3-2023, tại đây thì trời lại không đẹp lắm. Máy computer ghi nhiệt độ là 4°C. Mưa rả rích, nhưng trời sáng. Như thế là trời đẹp hay xấu nhỉ?
Thôi thì, theo lời dạy của người xưa (ngày xưa đó đến khổ sở với các câu nho „chùm“, nho „khô“ như thế này):
Tri túc, tiện túc, đãi túc hà thời túc.
Biết đủ là đủ. Chờ cho đủ thì biết bao giờ mới đủ.
Cho là trời đẹp thì thấy đẹp thật.
Có lẽ trời hôm nay đẹp thật vì ở cái tuổi ngót 90, sáng thức dậy chỉ thấy chút chút ê ẩm xương cốt, còn mở được computer, lướt qua các tin tức bà con bạn bè. Mà bạn bè cùng trang lứa cứ thưa dần. Người thì „đã đi xa rồi, xa tít mù tăm“. Người thì phều phào, chờ ngày „lên đường“… Bà con thì đang tất tưởi lo toan cơm áo gạo tiền, công danh sự nghiệp, chẳng ai dở hơi nhìn mưa …
Thấy mình thoát khỏi áp lực của công việc, không phải lo kinh tế khủng hoảng. Mừng húm. Mừng thì lòng vui. Lòng vui thì thấy trời đẹp. Mưa thấy cái đẹp của những giọt nước trong như ngọc từ trời rơi xuống. Mây mù thì thấy cái đẹp của sương xa lãng đãng …
Nghe mưa rơi, nhâm nhi ly cà phê sữa nóng, nhớ tới người thân. Gõ ít hàng này gửi thăm người thân, kèm lời thăm hỏi đầy tình nghĩa với lời chúc: MẠNH KHỎE-AN VUI-HẠNH PHÚC.
Hoài Hương là tên ban nhạc sinh viên và thanh niên học nghề ở Braunschweig. Mẹ không nhớ chính xác ban nhạc được thành lập năm nào, chắc khoảng năm 1987 vì khi mẹ bước chân vào ngưỡng cửa đại học 1986 thì ban nhạc chưa ra đời.
Tay đàn điện của ban nhạc là bác Hải, hai tay đàn thùng là bác Khoa, bác Hưng, đàn organ là bác Tuấn. Vì bác Khoa là người giỏi nhạc lý nhất nên được bầu làm trưởng nhóm, toàn quyền sinh sát, tức là chọn lựa những bài để tập, để trình diễn. Bác Tuấn lúc ấy không phải là sinh viên mà đã là dược sĩ nên ngoài cái đàn organ bác còn có bộ trống xập xình, trông rất oai phong, làm ban nhạc nhìn „bệ vệ“ hẳn hơn lên.
Ca sĩ thì có bác Đức, cô Nga và mẹ. Cô Nga lúc ấy còn ở chung với ba má, ít khi được tự do đi tập hát, nên mẹ thành nữ ca sĩ độc nhất luôn có mặt trên từng cây số. Chẳng phải mẹ hát hay ho gì, mà nữ sinh viên thời đó chỉ có vài cô, ai cũng mọt sách, mẹ cũng mọt sách, nhưng do mẹ học về ngành khoa học, „ít chữ“ hơn, cũng không có những giờ phải thực tập trong phòng thí nghiệm nếu học về môn hóa, y, dược v.v. nên mẹ rảnh rỗi hơn, có thì giờ la cà tập đàn, tập hát vớ vẩn. Nói là vớ vẩn chứ thật ra lúc ấy ở Braunschweig tuy đông người Việt nhưng chỉ có duy nhất mỗi ban nhạc Hoài Hương. Lễ Tết gì cũng chỉ có duy nhất mỗi ban nhạc Hoài Hương tình tang biểu diễn mua vui. Hội họp vui chơi cộng đồng người tị nạn cũng chỉ có duy nhất mỗi ban nhạc Hoài Hương ò e đàn trống.
Ngoài bác Tuấn là sinh viên du học, các thành viên còn lại của ban nhạc đều là người tị nạn mới đến Đức vài ba năm, ai cũng còn mang ít nhiều nỗi nhớ nhung người thân, bạn bè, láng giềng, hay nhớ người yêu bé nhỏ còn kẹt lại quê nhà, nên cái tên Hoài Hương, do bác Khoa đề nghị, được tán thành ngay lập tức. Ban nhạc thường tụ họp vào cuối tuần, đàn ca hát xướng không mục đích, những hôm tập dượt cho các chương trình Tết, hội hè v.v. thì có thêm vài ca sĩ „nghiệp dư“ khác.
Để hát một bài, mẹ phải bỏ rất nhiều công sức. Trước hết là dùng máy đánh chữ để chép lại lời, sau đó dùng viết „vẽ“ thêm dấu tiếng Việt, bác Khoa giúp ghi lại chủ âm, hợp âm sao phù hợp với giọng ca của mẹ.
Khổ nỗi, trình độ và vốn liếng âm nhạc của mẹ đã khép lại từ thuở „Kìa con bướm vàng“ (con xem bài „cô Liễu“ thì sẽ hiểu tại sao), thành ra „ca sĩ mẹ“ ráng để dành tiền mua một chiếc đàn ghi-ta cũ về tự học, giá 50 Đức Mã, một số tiền khá lớn đối với sinh viên tị nạn mà một tháng, sau khi trừ hết tiền đóng bảo hiểm, tiền phòng trọ, tiền ăn v.v. may ra còn được 5, 10 đồng đút túi. Do không biết về nhạc lý nên mẹ phải dán giấy lên cần đàn, ghi chú nốt nào nằm ở đâu, rồi dần dần có thể tự đánh đệm theo như hợp âm bác Khoa đã soạn cho „ca sĩ mẹ“ và tập hát theo, một kiểu làm bài ở nhà trước khi cùng luyện chung với ban nhạc vào cuối tuần.
Thời đó, làm gì có Karaoke mà khi hát sai ta có thể lập đi, lập lại nhiều lần tùy theo … sức – tập hát tốn rất nhiều năng lượng, nhất là khi hát những nốt cao, dài. Với ban nhạc, chỉ được phép hát „trật đường rầy“ vài ba bận là các bác ấy đã nhăn nhó, bắt đầu tự động „lên tông“, giọng không còn nhẹ nhàng à la … nghệ sĩ với cây đàn nữa. Sự kiên nhẫn của tay đàn, tay trống chỉ dành cho các cô vẫn đang „solo“, chuyện dễ hiểu thôi, vì trừ bác Tuấn đã có người yêu, bác Khoa, bác Hưng, bác Hải vẫn phòng không gối chiếc „khóc lẻ loi một mình“ (lời trong bài Nửa Hồn Thương Đau của nhạc sĩ Phạm Đình Chương). Đọc đến đây chắc đứa con gái đáng yêu nhất trên đời này của mẹ sẽ thắc mắc tại sao mẹ không được ưu đãi dù là nữ ca sĩ duy nhất của ban nhạc? Câu trả lời cũng rất đơn giản con à! „Ca sĩ mẹ“ là hoa đã có chủ, dù chủ quyền cũng rất mơ hồ, vì
Đàn ông năm bảy lá gan
Lá ở cùng vợ (ca sĩ mẹ), lá toan cùng người
Để tránh cảnh „Máu nhuộm bến Thượng Hải“ – Soundtrack trong bộ phim truyền hình cùng tên của điện ảnh Hồng Kông, dài 25 tập do TVB phát hành vào năm 1980 – các bác trong ban nhạc Hoài Hương chỉ xem mẹ như một thành viên, không hơn, không kém, hát sai sẽ bị „sửa lưng“ ngay tại chỗ, không nương tay. Chẳng những vậy các bác bắt mẹ phải học thuộc lòng lời bài hát, nhất là khi trình diễn trên sân khấu, chỉ được „đá lông nheo“ với khán thính giả, tuyệt đối không cho nhìn vào bài nhạc. Nhờ những sự khắt khe đó, tuy „ca sĩ mẹ“
Tôi ca không hay, tôi đàn nghe cũng dở
(trích lời trong bài „Cô Hàng Xóm“của nhạc sĩ Lê Minh Bằng)
nhưng không đến nỗi trật nhịp, lạc tông, sai giọng, tuy không đủ ngọt ngào để trình bày những tác phẩm mang giai điệu quê hương, luyến láy, ngân nga, vẫn có thể đem lại chút gần gũi, ấm cúng cho những buổi văn nghệ bỏ túi của người Việt tị nạn tại Braunschweig bốn thập kỷ trước.
Sự nghiệp đàn ca hát xướng của mẹ kéo dài khoảng hơn ba năm. Năm cuối đại học, mẹ phải dành nhiều thời gian để viết luận án ra trường, gạo bài thi, học bằng lái xe và còn nhiều mối lo toan khác cho tương lai nên đành nói lời từ giã ban nhạc. Kỷ niệm mẹ còn giữ đến nay, dù trải qua nhiều lần dời đổi chỗ ở vẫn không bị thất lạc, là một bản nhạc do bác Khoa sáng tác, mang tựa đề là tên ban nhạc nghiệp dư của sinh viên Braunschweig vào thập niên 80: Hoài Hương.