Nuối

Chắc các bạn sẽ thắc mắc về tựa đề của bài này?

Số là như vầy:
Cách đây không lâu, do thời tiết nóng và khô khan, gần thủ đô Athens (Nhã Điển) của Hy Lạp đã bùng lên một đám cháy rừng khá lớn với những đám khói dày đặc.
Con bạn tôi gởi một clip ngắn và nhắn tin: „Athens is burning, we just came back“

Tức cảnh sinh tình, nó sáng tác bài thơ „Athens is burning“:
https://thuytrangtran.jimdofree.com/2022/07/21/3-athens-is-burning/

Trong đó có đoạn:

Hồn vẫn nuối nhau
Bám vào tro nóng
Vũ với gió nồng
Chút cuối long đong …

Tôi la quảng la tiều:
– Sai chính tả rồi chị Hai ơi! „Hồn vẫn nối nhau“ chứ lị!
Nó điềm nhiên trả lời:
– Ý „chị Hai“ là lúc chết thì hồn bay ra khỏi xác, nhưng vì vẫn còn nuối nhau nên mới bám vào nhau đó mà.

Ái chà! Tôi chỉ biết nuối tiếc, tiếc nuối, tiếc hùi hụi ngẩn ngơ con cá vàng, chứ chưa bao giờ thấy động từ „nuối“ đứng „mình ên“ như vậy. Lại nhớ „Giáng Ngọc“ và Bàn tay năm ngón, bèn đi tra tự điển thì hóa ra có động từ „nuối“ thật: Mong đợi ai, khi chết không được nhắm mắt.

Keine Beschreibung verfügbar.

Thế mới biết tiếng Việt không đơn giản tí nào. Mỗi chữ đều có nguồn gốc, xuất xứ chứ chẳng phải đùa, lơ tơ mơ là đi trật đường rầy ngay.
Trong „Tôi tập viết tiếng Việt“ của Nguyễn Hiến Lê, chương XI, „Sự thuần khiết của ngôn ngữ“, ông có phân tích: Không ai có thể bắt một sinh ngữ giữ hoài giọng nói ngữ pháp, nhất là dụng ngữ của nó, phải để cho nó phát triển, mỗi ngày một mới mẻ thì nó mới phong phú, mới thêm sinh lực“. Nhưng ông cũng cho rằng “ … ít tài như chúng ta thì nên nhớ hai tiếng „họa hổ“ – vẽ cọp mà chẳng thành cọp – của cổ nhân“. Ông nghiêng về phe chủ trương thuần khiết của tiếng Việt vì „ … nó như một cô gái nền nếp, nhưng không cổ lỗ … Và tôi vốn ưa những cô gái nền nếp.“
Tôi vốn ưa những bài viết của Nguyễn Hiến Lê, nên sau khi tìm tòi tra cứu, tựa đề của bài này chỉ vỏn vẹn duy nhất một chữ … Nuối.

Werbung

Hoa của tuổi thơ, hoa của kỷ niệm

    Những năm đầu đặt chân lên quê hương thứ hai Canada (1983), tôi thường lái xe chở ba má tôi đi dạo phố phường, mùa xuân ngắm hoa uất kim hương (tulip), mùa hè đi thăm các vườn ươm cây, mùa thu ngắm lá vàng trong các công viên và mùa đông vào trung tâm thành phố xem thành phố trang trí hoa đèn cho lễ Giáng Sinh.

    Một lần vào cuối tháng 5 năm 1985, chúng tôi ba người đi dạo trong công viên bên bờ hồ Dows của thủ đô Ottawa.  Nơi đây hằng năm vào cuối tháng 5 có lễ hội hoa uất kim hương, bắt nguồn từ lòng tri ân của nữ hoàng Hòa Lan Juliana đối với Canada đã cưu mang gia đình hoàng gia suốt mấy năm Thế Chiến Thứ Hai và nhất là quân đội Canada hy sinh xương máu giải phóng Hòa Lan từ Đức Quốc Xã.

    Đi bộ được một lúc ba má tôi ngồi nghỉ chân trên một băng ghế đá.  Băng ghế gần đó có hai ông bà cụ người Pháp, tóc hạc da mồi vừa ngồi nghỉ mệt vừa nghe nhạc Pháp từ trong cái máy radio-cassette Walkman.  Cụ ông từ chiếc ghế bên cạnh nói vọng sang ba tôi, bằng tiếng Anh pha giọng Pháp, hỏi âm thanh có làm phiền ba má tôi không? Ba tôi vui vẻ đáp lời bằng tiếng Pháp, không phiền, trái lại ba tôi rất thích nghe nhạc Pháp.  Thấy ba tôi biết nói tiếng Pháp, hai ông bà cụ nhích lại gần cạnh ba má tôi, bắt tay và tự giới thiệu cụ ông là Pierre và cụ bà là Marie.  Cả hai cụ lúc đó đã 77 tuổi nhưng vẫn còn minh mẫn, cử chỉ nhanh nhẹn, thái độ thân mật ngay từ lúc bắt đầu cuộc đàm thoại.     

tulip        Vốn liếng tiếng Pháp của tôi chẳng có bao nhiêu, nghe thì đì đùng nói thì lạch cạch cho nên im lặng nghe các cụ trò chuyện với nhau.  Được một lúc, hai cụ Pierre và Marie chợt im lặng khi nghe trong băng cassette ca sĩ Nana Mouskouri hát bài ‘Chèvrefeuille que tu es loin’.  Cụ bà lại hát theo nho nhỏ, rồi quay lại bài hát nghe lần nữa, tầm mắt mơ màng nhìn khoảng trời xa.  Nghe xong cụ Marie âu yếm nhìn chồng cười và nói: ‘C’est magnifique!’ (that’s magnificent, wonderful-tuyệt vời).  Cụ Pierre đáp lời cụ bà: ‘A oui, c’est toujours belle!’ (yes, always good-nghe lúc nào cũng hay) sau đó quay sang ba má tôi và bắt đầu giải thích vì sau cả hai vợ chồng đều thích bài hát này.  Đó là một câu chuyện tình tuyệt đẹp mà hai cụ Pierre và Martie bỏ ra suốt mấy giờ đồng hồ để kể cho ba má tôi nghe.  Và đó cũng là lần đầu tiên tôi biết về hoa chèvrefeuille, hoa kim ngân, một thời là ‘hoa của tuổi thơ’ (fleur de l’enfance) và ‘hoa của kỷ niệm’ (fleur des mémoires).

    Hai cụ Pierre và Marie sinh năm 1908 ở một làng quê nằm về phía Bắc xứ Provence gần Côtes du Rhône, phía Đông Nam nước Pháp.  Khu vực Provence-Côtes du Rhône này có địa lý lịch sử và văn hóa pha trộn Pháp và Ý, trước Bordeaux trăm năm từng là nơi sản xuất những loại rượu vang đỏ và trắng ngon nhất nhì châu Âu như Grenache noir, Viognier, Muscardin, Terret noir, Roussanne… vùng này cũng là nơi trồng hoa oải hương (lavandre-lavender) lớn nhất nước Pháp.

   cotedurohne       Từ bé hai cụ ở cùng trên một con đường làng, đi học cùng trường lớp.  Năm các cụ 6 tuổi (1914), Thế Chiến Thứ Nhất bùng nổ, xứ Provence tuy nằm xa vùng giao tranh Alsace nhưng các thành phố lớn như Avignon và Marseille vẫn bị máy bay hai tầng cánh của Đức ném bom thường xuyên.  Trong suốt bốn năm thế chiến, trai tráng trong làng của hai cụ cũng như xứ Provence tòng quân nhập ngũ, một số không bao giờ trở về, một số trở về mất mát tứ chi, một số bị hội chứng động kinh ‘Shell Shock’ do nghe pháo bom suốt ngày (PTSD-post traumatique stress disdorder) mà vào thời đó được gọi nôm na là ‘World War I Shellshock Symptoms’ và một số mang về quê hương vi khuẩn ‘cúm chiến hào’ (trench  flu, trench fever) để rồi phát tán toàn châu Âu thành đại dịch Cúm Tây Ban Nha (Spanish Flu) và cướp đi 50 triệu sinh mạng toàn cầu.

    Chưa đầy 10 tuổi hai cụ đã nhìn thấy hậu quả do chiến tranh gây ra.  Một năm sau khi chiến tranh chấm dứt, vùng thung lũng sông Rhône và xứ Provence bắt đầu công cuộc tái thiết xứ sở, cố quên đi dĩ vãng đau buồn.  Người dân Pháp một lần nữa được hưởng cuộc sống thanh bình. Thế Chiến Thứ Nhất chấm dứt vào năm 1918, hai cụ được 10 tuổi và bắt đầu để ý nhau.  Cuộc sống bình dị ở vùng đồng quê khiến cho dân làng trở nên thân thiết và gắn bó với nhau hơn.  Suốt 5 năm tiểu học hai cụ đi bộ đến trường làng và trở về nhà trên cùng con đường đầy giàn hoa kim ngân bò lan trên các hàng rào gỗ và các bờ tường đá.  Sang trung học, hai cụ cùng học ở trường lớn xa hơn trường làng và ngày ngày đèo nhau trên xe đạp đến trường.  Từ trong lớp học nhìn ra ngoài cửa sổ là một mảng vườn hẹp chẳng có trồng hoa gì đặc biệt, một đám cỏ dại, vài lùm cây trắc bá diệp và giàn hoa kim ngân mọc chi chít trên hàng rào.  Khi ở Việt Nam hoa phượng nở đỏ rực vào cuối tháng 5 thì ở bên châu Âu cây kim ngân bắt đầu trổ bông.  Nhìn hoa kim ngân nở học sinh biết là sắp đến mùa bãi trường, hè đã tới rồi!

    Vào mùa hè các cô cậu thường tụ họp ở trường làng, bồn nước, nhà thờ hay đầu chợ rồi kéo nhau đi ra bờ sông câu cá, rong chơi trên các cánh đồng hoa oải hương hay vào rừng chơi trò trốn tìm.  Một số đông con nít phụ cha mẹ chúng những công việc lặt vặt trong các tiệm buôn hay nông trang.  Nông trang gồm những trại chăn nuôi gia súc và gia cầm để sản xuất lương thực như thịt, trứng, bơ, sữa, phô-mai (fromage, cheese), những trại trồng rau cải, hoa màu và nhiều nhất vẫn là các vườn trồng hoa oải hương để làm mỹ phẩm và vườn trồng nho để sản xuất rượu vang.

provence       Provence là vùng trồng hoa oải hương và nho nổi tiếng thế giới từ bao thế kỷ cho nên các cô cậu trong làng của hai cụ đa số làm việc hè ở các trang trại sản xuất rượu vang.  Hồi ức của hai cụ vẫn còn rõ ràng là những ngày hè êm ả ở vùng quê xứ Provence nơi hai cụ sinh trưởng, lớn lên, kết hôn và xây dựng gia đình.  Mỗi người ở đây đều ôm ấp các chuyện đời đẹp như chuyện cổ tích.

    Vào sáng sớm bọn trẻ trong làng tập trung ở bồn nước đầu làng trước cửa tiệm bánh mì, hay bồn nước trước cửa nhà thờ làng, xe buýt của thị xã sẽ chở khách đi vào Avignon hay Aix-en-Provence và trở về, một ngày chỉ có hai chuyến.  Ngang qua nông trại, xe buýt thả công nhân làm việc ở đó rồi đi tiếp vào thành phố.  Các cô cậu muốn tiết kiệm tiền xe buýt thì đi xe đạp hay quá giang các xe tải camioncamionnette của các hãng xe Peugeot, RenaultBerliet.

pegeat     Các chuyến xe tải phân phó hàng hóa như sữa, rau cải, gà vịt, rượu vang, bột mì… giữa các làng lân cận, đến Avignon và Aix-en-Provence cũng như Nice và San Remo ngay sát biên giới Pháp-Ý.  Hai cụ Pierre và Marie còn nhớ rõ những ngày hè cùng các bạn đồng lứa ngồi ngất ngưởng trên thùng xe tải, ca hát reo hò vui vẻ cho đến khi xe dừng trước trang trại.  Buổi chiều các cô cậu lại quá giang trên các chuyến xe tải khác trở về làng của mình.

    autos      Ở xứ Côtes du Rhône người ta thường ngửi được mùi nho chín và mùi rượu vang phảng phất trong không gian khi đi ngang vườn nho và xưởng rượu.  Ở vùng Provence dân quê vừa trồng nho vừa trồng hoa oải hương cho nên người ta luôn ngửi được mùi thơm từ cả hai thứ hoa quả này quyện vào nhau và bay lan man trong gió.  Không, còn có một mùi hương mà dân quê Côté du Rhône, Provence cũng như ở khắp đồng quê nước Pháp ai cũng thích, đó là mùi hoa kim ngân.

    Hai cụ Pierre và Marie lúc đó chính thức cặp bồ (dating) với nhau, cùng làm hè ở một trang trại sản xuất rượu nho, kể lại vào buổi chiều sau khi trở về từ trại nho, hai cụ thường đèo nhau trên xe đạp hoặc nắm tay nhau đi bộ trên con đường làng, không gian yên tĩnh, trời trong xanh, nắng hanh vàng, hai bên đường là những giàn hoa kim ngân hai màu trắng vàng hay đỏ cam nở to trong nắng và tỏa hương thơm nhè nhẹ, xa xa là các cánh đồng hoa màu, tất cả tạo nên một cảnh sắc tuyệt đẹp và một khoảnh khắc thơ mộng, lãng mạn mà người thời nay không bao giờ cảm nhận được. ‘… và những đôi nhân tình xưa thả hồn dưới mây chiều…’(Đồng Xanh-Lê Hựu Hà)

liebe      Vào ban ngày mùi hoa kim ngân chỉ bay thoang thoảng trong gió.  Mùi hoa trở nên đậm đà hơn từ sau hoàng hôn và về đêm tỏa ngát và lan rất xa.  Vào thời đó dân quê chẳng có phương tiện gì để giải trí ngoài đi xem lễ chiều, đi chợ đêm ở quảng trường, đạp xe loanh quanh trên các con đường làng, tụm năm tụm ba tán dóc trước tiệm tạp hóa hay bên hàng rào, các cô cậu nhỏ rủ nhau đi bắt ếch dưới gầm cầu, lang thang trong rừng, các cô cậu lớn hơn một chút thì ôm đàn guitar ca hát trong sân vườn trong khi các cặp bồ lớn tuổi hơn thì ‘toi et moi’ nắm tay nhau đi dạo hay đạp xe trên các con đường làng, vô hình chung người dân làng ai cũng ngửi được hương thơm của hoa kim ngân ngọt ngào trong không gian.  Hai cụ Pierre và Marie từng cùng chúng bạn đi soi ếch ban đêm và cũng từng tay trong tay đi xem thánh lễ tối, đi dạo trên các vỉa hè lát đá, đi chợ đêm… và dĩ nhiên luôn luôn ngửi được mùi hương quen thuộc của hoa kim ngân.

kinder     Nếu hương hoa hồng nồng nàn, hoa huệ (lily) thanh khiết, hoa linh lan (muguet-de-mai) e lệ, oải hương (lavandre) quyến rũ thì mùi hoa kim ngân đơn thuần như đời sống nơi thôn dã.

    Ngửi mùi hoa kim ngân người thời đó sẽ liên tưởng ngay đến những ngôi làng đẹp như trong các truyện cổ tích, những con đường lát đá yên tĩnh, những bờ tường đá và hàng rào gỗ mọc đầy cây leo, những cây cầu đá rêu phong, khuôn cửa xanh của tiệm tạp hóa kiêm nhà bưu điện ở cuối dốc, hoa kim ngân bò lan trên mái hiên xiêu vẹo, ngôi giáo đường khum khum với mái ngói đỏ, tường vôi trắng, gạch nung loang lổ và tháp chuông bé tí trên đỉnh nóc, chợ làng (farmers’ market) với các xe rau cải quây quần trước quảng trường thị xã, giếng làng với tay bơm bằng đồng cũ kỹ, bồn nước hoen rỉ ở công trường nhà thờ, ga xe lửa xơ xác mốc meo …
dorf

dorf2      Người dân đồng quê xứ Provence cũng như khắp nước Pháp sống an phận với công việc nông gia ngày này qua ngày khác.  Cuộc sống thực sự cũng không buồn chán, vì cứ cách vài tuần lại có một lễ hội hay các hội chợ bày bán các sản phẩm địa phương, luôn luôn có những giàn ngựa quay, xích đu, các quầy ném banh và các chú hề làm trò để thu hút đám con nít.  Đó cũng là dịp các đoàn xiếc hay đoàn ca kịch ‘miệt vườn’ đến lưu diễn tại các làng.  Nhiều đoàn xiếc nhỏ đến độ chỉ có một ông bầu gánh, hai con chó và một con khỉ con nhưng vẫn thu hút khán giả mọi lứa tuổi.  Hai cụ Pierre và Marie và đám bạn bè cùng trang lứa trong làng thường rủ nhau đi xem hội chợ, xem hát ở khắp vùng Provence và cũng có rất nhiều lần bán rượu vang và nước giải khát trong hội chợ làm bằng hoa kim ngân tươi và chanh ngâm trong nước đá.

fest      Hai cụ và đám bạn bè thích nhất là xem phim ở các máy chiếu phim di động.  Vào những năm 1920’s lúc phim ảnh chiếu ở rạp hát chỉ là những ước mơ của người dân ở các làng mạc xa xôi thì người ta sáng chế ra rạp hát bỏ túi và rạp hát lưu động để mọi người nhất là dân nghèo ở làng quê đều có thể xem phim miễn phí hay chỉ tốn vài xu, gọi là máy Kaiserpanorama (Kaiser-Panorama).  Các máy chiếu phim được thiết kế cho 20 đến 28 người xem cùng một lúc và được đặt ở thư viện hay tòa hành chánh thị xã.  Các máy chiếu phim lưu động nhỏ hơn rất nhiều, thường chỉ có 2 tới 4 người xem, và luân phiên đặt trong các hội chợ để phục vụ nhu cầu ghiền xi-nê của mọi lứa tuổi.  Một số máy chiếu phim được lắp đặt ngay trên xe tải, có 4 đến 12 ống dòm, mãn phiên hội chợ chủ ‘rạp hát’ lại lái xe đi hội chợ khác, rất tiện lợi và nhanh chóng.         

kaiser      Vài năm sau từng cặp từng cặp kết hôn.  Hôn lễ của hai cụ cũng như các hôn lễ trong làng không bao giờ thiếu hoa kim ngân.  Bó hoa cô dâu cầm trên tay, vòng hoa trên đầu của các phù dâu, bé gái thiên thần hoa (bouquetière, flower girls),  hoa rải trên lối đi, hoa trên bàn các thánh, hoa trang trí trong sảnh đường của tiệc cưới tất đều được kết nối hay tổ điểm bằng hoa kim ngân.

hochzeit     Cụ Marie kể lúc vợ chồng cụ thành hôn, gia tài của hai cụ chỉ có hai chiếc xe đạp cũ kỹ và một chú chó BergerAllemand (German Shepherd) dễ thương.  Ba năm sau vợ chồng son sắm được một căn nhà nhỏ ở cuối dốc đường làng, hai bên có hoa oải hương mọc chen lẫn với hoa kim ngân, chung quanh nhà luôn luôn thoảng hương thơm của hoa trong gió, nhất là vào ban đêm.  Vào mùa hè lũ trẻ con kéo nhau ra cánh đồng hoa oải hương hay vào cánh rừng thưa gần nhà hai cụ chơi trốn tìm.  Lúc trở về chúng thường mang hoa kim ngân cho cụ Marie cắm vào bình vì biết cụ thích hoa kim ngân.  Các bé gái hái thật nhiều hoa kim ngân cho cụ Marie nấu canh truyền thống và làm rau trộn.  Chúng mang thật nhiều bao bố đựng hoa kim ngân vàng cho cụ Marie làm mật kim ngân (honeysuckle jelly).  Mùa thu lũ trẻ con hái thật nhiều trái kim ngân tím (honeyberries)cho cụ Marie làm mứt, làm bánh pie và bánh crepe.  Các con của hai cụ cùng vui đùa với lũ trẻ trong làng, lập lại tất cả những gì ngày xưa hai cụ Pierre-Marie và chúng bạn từng làm thuở bé.

    Cuộc sống an bình của dân miền đồng quê xứ Provence kéo dài được 20 năm.

fieden      getränk      Chiến tranh thế giới lần thứ hai xảy đến, mùa hè năm 1940 quân Đức dũng mãnh đánh chiếm một nửa miền Bắc của nước Pháp.  Một nửa miền Nam là Vichy France, một chính phủ thân Đức của thống chế Pétain.  Kháng chiến quân Pháp (La Résistance, French Resistance) lấy Toulouse làm thủ đô kháng chiến, thường tập trung và tung ra các nhóm quân du kích chặn đánh quân Đức.  Các trận giao tranh dữ dội ở phía tây Langedoc-Toulouse khiến quân Đức tức giận.  Không quân Đức dội bom khắp nơi với mục đích triệt hạ nền kinh tế của Vichy France.  Miền đồng quê Provence và các làng mạc thung lũng sông Rhône bị các trận oanh tạc thường xuyên khiến dân làng bỏ chạy tứ tán.  Vichy France rơi vào cảnh khan hiếm lương thực.  Quân kháng chiến Pháp và thường dân tử thương ngày càng nhiều, mãi cho đến tháng 6 năm 1944 quân đội đồng minh Mỹ-Anh-Canada đổ bộ Normandy, giải phóng nước Pháp và lật ngược thế cờ của Pháp và châu Âu.

  briefparis2paris     Hai cụ lúc đó đã thành vợ chồng (32 tuổi), có 5 đứa con, đang làm chủ một tiệm tạp hóa nhỏ phải bồng bế nhau rời làng đi lánh nạn ở xứ Langedoc-Toulouse, nơi bị thiệt hại nhẹ nhất tuy lương thực vẫn bị thiếu hụt.  Hai cụ vào làm việc ở một công xưởng sản xuất vũ khí ở ngoại ô Toulouse, công việc rất nặng nhưng hai cụ vẫn vui vẻ chấp nhận như là để bày tỏ lòng ái quốc.  Cụ Pierre thường xung phong lái xe tải chở quân dụng và vũ khí ra tiền tuyến trong khi cụ Marie đi học thêm một khóa trợ tá cấp tốc và phục vụ thiện nguyện ở các lâu đài cổ hay biệt thự được biến thành bệnh xá tạm thời.  Lâu đài cổ nơi cụ phục vụ cứu thương ở vùng đồng quê cách Toulouse khoảng 20 km, chung quanh lâu đài mọc đầy hoa kim ngân.  Cụ Marie làm việc cùng với một nhóm nữ y tá đến từ bên kia bờ đại Tây Dương, Canada.  Một số nữ y tá Canada xung phong ra chiến tuyến và tử nạn trong khi làm nhiệm vụ, và đó cũng là một trong các lý do khiến hai cụ chọn di dân sang Canada.  Các con của hai cụ tự chiếu cố lẫn nhau trong khi cha mẹ vắng nhà.  Ban đêm hai cụ ngồi bên nhau nghe tin chiến sự qua cái radio mang theo từ quê nhà.

radio      Sinh hoạt thường nhật của gia đình hai cụ cứ diễn ra đều đặn như thế cho đến khi chiến tranh chấm dứt.  Hai cụ mang các con trở về xứ Provence, quê nhà vẫn còn đó, hàng xóm và dân trong thị xã người còn tồn tại người lưu lạc chưa về, các công thự đổ nát và chung quanh các nhà thờ có thêm rất nhiều ngôi mộ mới với thánh giá sơn trắng.  Chính phủ cho hai cụ một số tiền không nhỏ (tiền hồi hương) để giúp gia đình hai cụ tạo dựng cuộc sống mới.  Hai cụ Pierre và Marie lại mở cửa hàng tạp hóa, sắm thêm một chiếc camionnette cũ cho đứa con trai lớn đi lấy hàng và giao hàng đồng thời chở các em đến trường.  Vào những ngày hè cuối tuần, cụ Pierre đưa gia đình đi thăm các thành phố lớn ở miền nam như Marseille, Toulon, La Ciotat, Bandol và những làng chài cổ kính ven biển.  Nhìn thấy các nghĩa trang bên cạnh ngôi giáo đường trông ra biển, hai cụ Pierre và Marie từng ước mơ được chôn cất ở đây, để ngày ngày ngắm biển Địa Trung Hải tuyệt đẹp, lắng nghe tiếng sóng biển, tiếng chim hải âu và tiếng chuông giáo đường như là bài hát ru trẻ (berceuse, lullaby) không bao giờ dứt.

kirche      Tháng 6 năm 1968, nữ ca sĩ Hy Lạp Nana Mouskouri lần đầu tiên hát bài ‘Chèvrefeuille que tu es loin’ (Pierre Delanoë viết lời Pháp) trên radio thì hai cụ Pierre và Marie vừa tròn 60 tuổi.  Với giọng rất là đồng quê và buồn xa vắng Nana Mouskouri đã làm rung động thính giả qua chuyện tình buồn của một cặp uyên ương trẻ.  Thay vì dùng một dàn nhạc đại hợp xướng để đệm cho ca sĩ hát như các nhạc sĩ Việt Nam thường làm, Pierre Delanoë chỉ dùng một cây đàn guitar để đệm cho Nana Mouskouri.  Những người còn sống sau đại chiến khi nghe tiếng đàn guitar đệm ở phần nền khiến họ hồi tưởng lại chính mình và những chàng trai trẻ trong làng đàn và hát trong các lễ hội địa phương, đàn cho người yêu nghe hay đàn cho đồng đội ở ngoài chiến tuyến giải sầu.  Họ viết thơ gởi lên báo kể về chuyện tình của họ và của thân nhân của họ, về những nỗi niềm đau mà châu Âu bỏ lại sau lưng từ hơn hai mươi năm trước.

nana      Bài hát này như là quà sinh nhật 60 tuổi cho hai cụ, vừa lúc hoa kim ngân nở rộ khắp châu Âu.  Hai cụ bùi ngùi nhớ tới bạn bè của hai cụ và các trai làng xứ Provence lục tục đi lính mỗi năm khi mùa hè đến.  Những mùa hè sau chỉ có vài người trở về mất mát tứ chi, mặt mày biến dạng hay nói năng khật khùng do tác động của hội chứng động kinh ‘Shellshock Symptoms’.  Hai cụ may mắn được sống bên nhau cho đến bây giờ, trong khi những thanh niên kém may mắn vĩnh viễn ra đi giống như số mệnh của chàng trai trẻ trong bài hát và cũng kém may mắn không nghe được bài hát mà Pierre Delanoë chủ ý viết về họ, những anh hùng vô danh của tổ quốc.  Trong bài hát có đoạn cậu trai hỏi người yêu tìm cho cậu một mảnh đất gần bờ biển, cạnh ngôi giáo đường và táng cậu nơi đó, nơi an nghỉ cuối cùng để hằng ngày tiếng hải âu, tiếng sống biển và tiếng chuông giáo đường nguyện hồn cậu.  Hai cụ thích nhất đoạn hát này vì đó chính là ước mơ của hai cụ. …

Veux-tu me trouver un arpent de terre (Tìm một mảnh đất cho tôi, nàng ơi)

Chèvrefeuille que tu es loin                       (Giàn thiên lý đã xa mãi nghìn xanh)

Tout près de l’église au bord de la mer    (Miếng đất ngay bên giáo đường ven biển)

Pour chanter mon dernier refrain           (để tôi nghe lời ru của biển ở nơi tôi an giấc lần cuối cùng)

  (‘Chèvrefeuille que tu es loin’, lời Việt ‘Giàn thiên lý đã xa’, đoạn 3)

    Sau khi di dân sang Canada, hai cụ trở về xứ Provence đôi lần, đi thăm các ngôi làng cổ, các nông trang trồng nho và hoa oải hương mà hai cụ và chúng bạn từng làm việc hè, các nhà thờ làng, thành phố Aix en Provence, Avignon, Toulon, Marseille và các thành phố ven biển, đi tìm lại những giàn hoa kim ngân mọc trên hàng rào và các con đường làng cũ, và một lần đi thăm nghĩa trang của liên quân Mỹ-Anh-Canada ở Normandy, miền Bắc nước Pháp, nơi họ đổ bộ và hy sinh vào ngày 6 tháng 6 năm 1944.  Khi trở về Canada cụ Marie thường mang về từ quê nhà mứt tím làm từ trái kim ngân và vài chai nước hoa mùi chèvrefeuille, lâu lâu cụ thoa lên cổ tay để ngửi và tưởng nhớ lại tuổi thơ của hai vợ chồng.  Pauvre vieille Marie qui pense au pays, tội nghiệp cụ Marie, cứ nhớ thương mãi quê nhà…     

    Không riêng gì người Pháp, dân châu Âu đều nghĩ đến những người thân đã hy sinh trong hai cuộc thế chiến.  Mỗi người dân châu Âu có một loài hoa mà họ yêu thích, nhưng sau khi nghe bài hát ‘Chèvrefeuille que tu es loin’, họ bàng hoàng nhớ lại tuổi thơ của họ và chợt nhận ra kim ngân mới là loài hoa đã đi vào tâm hồn của họ từ lúc mới sinh ra.  Họ từng chơi đùa bên bạn bè, ngửi hoa, ăn trái, ép hoa kim ngân vào tập vở, kết vòng hoa trên đầu, cắm hoa lên bàn thờ các thánh… mà nay bạn bè của họ không còn nữa.  Hoa kim ngân không chỉ là hoa của người dân miền thôn dã, mà còn là ‘hoa của tuổi thơ’ (fleur de l’enfance) và ‘hoa của kỷ niệm’ (fleur des mémoires).

memoire      Qua sự bảo lãnh của một vị cựu y tá từng sang Pháp và làm việc với cụ Marie ở lâu đài cổ năm xưa, năm 1970 ở tuổi 62 vừa lúc về hưu hai cụ Pierre và Marie lại theo các con di dân sang Canada, ở thủ đô Ottawa và bắt đầu cuộc đời mới với số tiền dành dụm ở quê nhà.  Dù vĩnh viễn xa lìa cố hương nhưng hai cụ Pierre và Marie vẫn luôn hướng lòng về quê nhà xưa ở Provence và vẫn thường nghe đi nghe lại bài hát ‘chèvrefeuile que tu es loin’, bài hát luôn gợi nhớ về khung trời kỷ niệm của hai cụ… ‘Pauvre vieux couple qui pensent au pays, chèvrefeuille que tu es loin…’, tội nghiệp đôi vợ chồng già cứ nhớ thương mãi quê nhà, giàn kim ngân đã mãi xa rồi…

    Sau khi kể chuyện xong, cụ Pierre ngắm cánh đồng hoa uất kim hương rồi nói với ba tôi: ngày nay nước Canada và các cựu chiến binh may mắn vẫn còn được dân chúng Hòa Lan tri ân, trong khi quân đội đồng minh Mỹ-Anh gian khổ giải phóng châu Âu, Bắc Phi và châu Á thì chẳng còn ai muốn nhớ.  Di dân tràn ngập châu Âu, không ngớt thóa mạ nước Mỹ về chiến tranh Việt Nam.  Họ không nhớ hay không muốn nhớ nếu không có nước Mỹ dẫn dắt quân đội đồng minh bao thầu 3 mặt trận chịu tổn thất lớn lao và vất vả chiến thắng phe trục, họ không hề có cơ hội đặt chân lên nước Pháp và châu Âu để hưởng cuộc sống sung sướng hơn nơi họ sinh ra.

    Hai cụ nói rằng hai cụ luôn luôn ghi nhớ công ơn của các chiến sĩ liên quân Mỹ-Anh-Canada đã đổ máu, mồ hôi và nước mắt để giải phóng nước Pháp và châu Âu, và các bác sĩ y tá người Canadiens đã xả thân cứu sống rất nhiều lính và thường dân Pháp suốt mấy năm chiến tranh.

Cụ Marie không biết tiếng Anh nhiều, trước khi từ giã quay sang cầm tay má tôi và tôi, cụ nghiêm trang nói: Quand vous buvez de l’eau, pensez à sa source’ (when you drink water, think of its source-tục ngữ Việt Nam: uống nước nhớ nguồn).

Tháng 6 hoa kim ngân nở rộ ở khắp châu Âu và châu Mỹ, nhắc nhở mọi người trên hai châu lục sự kiện lịch sử June 6-1944 đã thay đổi vận mệnh thế giới với máu, mồ hôi và nước mắt của gần 160,000 chiến sĩ của quân đội đồng minh Mỹ-Anh-Canada.  Người dân Pháp ngày nay chẳng còn ai nhớ hay muốn nhớ đến ngày 6 tháng 6 và những nấm mồ trông ra biển của những anh hùng vượt đại dương giải phóng nước Pháp và châu Âu…

cementery3      Tôi may mắn được gặp hai cụ Pierre và Marie để được nghe hai cụ kể chuyện xưa, một mối tình đồng quê tuyệt đẹp, để được biết đến thiên tài văn chương và âm nhạc người Pháp Pierre Delanoë và để biết được ý nghĩa thật sự của bài hát ‘Chèvrefeuille que tu es loin’, một thiên tình ca thời chiến mà đã làm xúc động hàng chục triệu người dân châu Âu hơn 20 năm sau Thế Chiến Thứ Hai.  Thời gian xóa mờ tất cả, những người dân châu Âu của thế kỷ trước dần dần ra đi, bài hát vang bóng một thời cũng dần dần chìm vào quên lãng, chẳng còn ai biết đến hoa kim ngân và huyền thoại của nó, giống như số phận của chàng trai đáng thương trong bài hát:     

    … Pauvre garçon que l’amour oublie (tội nghiệp cho thằng bé chẳng còn ai thương nhớ)          

    Un peu plus à chaque matin (tình yêu dần quên lãng theo thời gian).

hang rao

Ottawa, 6 tháng 6, 2021

Lê Anh Dũng

altes paar

Câu chuyện tháng Tư

Hôm nọ, đứa con gái đáng yêu nhất trên đời này của tôi chợt thắc mắc:

– Bạn con nói ba mẹ nó chẳng kể gì về chuyến vượt biên của họ, mà con cũng chẳng bao giờ nghe mẹ kể về chuyến vượt biên của mẹ?

Ừ nhỉ, có lẽ đến lúc tôi nên chuyển sang ghi chép những gì còn sót lại trong cái ký ức bắt đầu lão hóa của mình thay vì viết nhăng nhăng cuội cuội về những câu „Chuyện cõi tạm“, để sau này đứa con gái đáng yêu nhất trên đời này của tôi còn có lý do ngồi đánh vần i tờ mà đọc „Hồi ký của mẹ“.

Vào một ngày tháng 4 năm 1980, bà ngoại tìm được „mối“ móc nối đưa người đi vượt biên bằng đường biển, khởi hành từ Sóc Trăng, giá 2 cây vàng một đầu người, mẹ và bác Hiệp, bác Đức thì họ lấy tổng cộng 5 cây, 3 cây giao trước, 2 cây còn lại đưa trước khi lên ghe.
Ba anh em, ngoài bộ đồ vá chằng vá đụp trên người giả dạng làm dân quê bản xứ, chỉ mang theo mỗi người một bộ quần áo và ít tiền dằn túi. Bây giờ nghĩ lại mẹ mới thấy đó là một việc làm hoàn toàn vô nghĩa vì người thành phố dù có ngụy trang kiểu gì đi chăng nữa vẫn lòi đuôi cáo do đi đứng, dáng dấp, cách ăn nói, âm hưởng, khuôn mặt v.v. không có vẻ gì là dân quê miền Tây Nam bộ cả.

Nhóm người đi vượt biên được đón ở bến xe đò rồi đưa tới tạm trú trong một căn nhà lá vách đất. Họ cho ăn uống qua loa, sau đó bắt ngồi chờ đến lúc trời chạng vạng tối thì chia ra nhiều tốp nhỏ và ra dấu đi theo họ đến bờ sông. Không ai dám nói với ai câu nào vì đã được dặn dò kỹ lưỡng không lòi đuôi cáo „dân Sài Gòn vượt biên“.

Mẹ mất hoàn toàn khái niệm về thời gian, một phần vì sợ, mắt dán chặt vào bác Hiệp để khỏi bị lạc, một phần chung quanh là cây cối, sông nước, chẳng biết đâu là đâu. Thật là vất vả mới leo lên được chiếc ghe mỏng manh, tròng trành ở ven sông, không nhẹ nhàng, an toàn như kỳ mình xuống thuyền trong chuyến du lịch ở Hội An đâu, đứa con gái đáng yêu nhất trên đời này của mẹ à! Một thằng bé năn nỉ bác Hiệp cõng dùm người chị cậu ấy vì con bé có tật, không thể lội nước.
Ra gần cửa biển, một lần nữa nhóm vượt biên lại bị lùa lội lõm bõm để leo lên chiếc ghe lớn hơn. Phụ nữ, trẻ em họ dồn xuống khoang dưới, thanh niên, đàn ông chen nhau đứng ở trên boong. Mẹ ước chừng hơn năm mươi mạng bị ép cá mòi trên chiếc ghe, mà theo như tấm hình do nhân viên Cap Anamur chụp lại ở trên, mẹ đoán nó dài khoảng hơn 10 mét. Do không chịu được sự ngột ngạt ở khoang dưới, mẹ lần mò leo lên boong, gần chỗ bác Hiệp, ở phía đầu mũi ghe.

Mẹ rời quê hương, để lại sau lưng gia đình, người thân, bạn bè, kỷ niệm …, ra đi vô định, chỉ mang theo duy nhất một ước mơ có được tương lai tự do, tươi sáng. Mẹ không khóc, nhưng nghe lòng mình chùng xuống khi khoảng cách giữa chiếc ghe và đất liền ngày càng lớn dần, cho đến khi chung quanh chỉ còn là đại dương bao la, đen ngòm, không trăng, chỉ thấy sao trời lấp lánh trên cao.

Tháng 3 bà già đi biển.

Câu này ý nói tháng 3 âm lịch là mùa biển lặng, ít sợ sóng có thể đánh lật tàu. Mà quả là đúng như vậy. Biển êm ru, phẳng lì, ta có thể nhìn đến tận chân trời xa tít mù khơi. Lần đầu tiên trong đời mẹ hiểu thế nào là „sống chết nằm trên đường tơ kẽ tóc“: chỉ cần một cơn sóng nhẹ thì cái thuyền mong manh như chiếc lá trong đại dương này sẽ bị lật úp, dù mẹ là vô địch Yết Kiêu hay có hàng vạn huy chương vàng bơi sải, bướm, xấp, ngữa … gì đi chăng nữa, mẹ cũng sẽ là mồi ngon cho đám cá đang vô tư búng mình tanh tách trên mặt biển kia.

Lâu lâu, mỗi người được chia cho chút đồ ăn, mẹ không còn nhớ rõ là cơm ngưội hay bánh mì khô, đại khái chỉ ăn cầm chừng mà thôi. Uống thì mỗi lần là một ngụm nước từ cái nắp của can dầu rỗng 10 lít bằng nhựa trắng mà nhóm tổ chức hứng đầy nước sông đục lờ lợ sau khi họ trút hết dầu vào máy tàu trước khi khởi hành. Mẹ có cảm giác mẹ đang uống nước dầu hôi. Cái cảm giác này theo mẹ mãi đến bây giờ, nên cứ mỗi lần ngửi mùi lá mơ hăng hắc như dầu hôi mẹ lại nhớ đến những ngụm nước trên con tàu vượt biên dạo ấy.

Tuy uống ít nước nhưng cơ thể vẫn làm việc chăm chỉ: lọc và đào thải nước tiểu. Đàn ông thì đơn giản rồi, họ cứ thế là „phi“ nước tiểu xuống biển. Mẹ cũng như các phụ nữ khác chỉ có cách „xả nước cứu thân“ duy nhất là „ở đâu làm đó“, mà hình như lúc ấy mùi dầu hôi đã trở thành một loại EdT (Eau de Toilette) tự nhiên, lấn át hết các mùi amoniac. Cũng có thể cái khứu giác của mẹ đã bị tê liệt dần theo tỉ lệ nghịch của ánh nắng mặt trời ngày càng trở nên gay gắt.
Khi nào quá buồn ngủ mẹ dùng một tay khoèo vào một cái móc ở trên boong để ngộ nhỡ có ngủ gục không bị lăn xuống biển. Mà hình như con người có trực giác sống còn, cứ lúc mẹ sắp say ngủ, tay lỏng ra là tự nhiên giật thót mình tỉnh dậy hay có ai đó đụng vào người mẹ do ghe lắc qua lắc lại.

Lênh đênh trên biển như thế được 2 đêm thì đến khoảng trưa ngày thứ 3, ở mãi phía chân trời xa tắp, chợt hiện lên một đốm đen. Mọi người trên boong nhổm dậy dõi mắt nhìn theo cho đến khi đốm đen ấy to dần và hiện rõ là hình một chiếc trực thăng đang bay thẳng về hướng chiếc ghe của mẹ. Họ bắc loa nói một lô tiếng Anh xí xa xí xồ. Hồi đó vốn liếng Anh ngữ của mẹ chỉ „How are you? I’m fine, thank you“, nhưng mẹ cũng hiểu lờ mờ rằng họ nói sẽ cứu mình và hướng dẫn tài công cách điều khiển ghe tiến dần đến gần con tàu Cap Anamur thế nào để không bị sóng của con tàu vĩ đại này làm lật úp – mẹ phải nói là vĩ đại nếu so với chiếc ghe vượt biên mỏng manh, tròng trành của mẹ.
Khi chiếc thuyền con cặp sát được vào mạn tàu Cap Anamur thì thủy thủ – đa số là người Phi Luật Tân – thòng dây có có căng bạt xuống để kéo trẻ em hoặc phụ nữ quá yếu sức không thể tự leo thang dây lên tàu lớn được.

BOAT PEOPLE WERDEN 1980 VON DEM FLÜCHTLINGSSCHIFF CAP ANAMUR AUFGENOMMEN / ARCHIVBILD 80ER

Trong khi chờ cứu hộ phụ nữ trẻ em, đám chủ ghe lôi dừa ra chặt lấy nước uống, mẹ thấy trong khoang của họ nào dưa hấu, đồ ăn, thức uống chồng chất. Một chút gì đó nghe chua cay trong lòng khi mẹ nhớ đến những cái nắp lõng bõng nước sông, đục lờ lợ, toàn mùi dầu hôi. Nhưng nỗi tức giận đó chỉ thoáng qua trong chốc lát vì khi ấy mấy ông thủy thủ ra dấu tới phiên mẹ chuẩn bị bám thang dây để leo lên.

Lên tàu lớn mẹ được cho uống nước, húp chút súp nóng. Các vị bác sĩ, nhân viên làm việc thiện nguyện ân cần chăm sóc mọi người. Mẹ nhìn họ mà ngỡ đó là những thiên thần không có cánh, chỉ có hai bàn tay đầy thương yêu đang mở ra đón mẹ vào thiên đường hạ giới. Đúng như vậy đó, đứa con gái đáng yêu nhất trên đời này của mẹ! Thời gian ở trên tàu Cap Anamur – sau khi vớt ghe của mẹ họ còn tiếp tục vớt nhiều chiếc khác nữa – là khoảng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời của mẹ: không sợ đói khát, không chút lo âu, ban ngày chạy nhảy tung tăng trên boong, nhìn từng đàn cá chim bàng bạc dưới ánh nắng mặt trời, búng mình tanh tách trên biển, buổi tối ngồi ngắm ngàn vì sao rọi xuống đại dương đen ngòm, y hệt như phi hành gia đang du hành trong vũ trụ. Cả tương lai sáng ngời đang chờ mẹ ở phía trước!

Sau khi vớt một số ghe nữa và cũng không còn chỗ chứa thêm người vượt biển, tàu Cap Anamur gieo neo nơi bến cảng Singapore, chờ thủ tục đưa người đến tạm trú tại trại tị nạn Galang ở Nam Dương (Indonesia) trước khi hoàn tất hồ sơ đi định cư ở quốc gia thứ ba. Mẹ sẽ kể con nghe về những tháng ngày sống trên đảo Galang của mẹ trong một chương khác.

Câu chuyện vượt biên của mẹ là thế đấy, không có gì đặc sắc hay tình tiết éo le, ly kỳ như nhiều câu chuyện bi thương khác về số phận những „vietnamese boat people“ vào thập niên 80. Con có thể kể lại cho bạn bè, con cháu của con nghe khi họ thắc mắc về cội nguồn của con, một người da vàng mũi tẹt, sinh ra, lớn lên ở Đức và mang quốc tịch của dân da trắng mũi lõ. Hoặc sau này, trong một chuyến du thuyền nào đó trên biển Thái Bình Dương, vào ban đêm, khi ngồi trên boong tàu ngắm ngàn vì sao chiếu lấp lánh trên trời, con sẽ nhớ đến mẹ cũng đã từng làm như thế trên con đường đi tìm tự do, hỡi đứa con gái đáng yêu nhất trên đời này của mẹ!

Würselen, viết ngày 27.04.2022

Khúc hát thanh xuân

Hôm nọ, mẹ tôi nói:
– Con rảnh tìm cho mẹ bài hát „One day when we were young“, bản tiếng Pháp nhé!
Tôi nghĩ bụng „dễ ẹt“, rồi quên béng đi mất vì cứ hễ định lên internet kiếm bài ấy thì xếp lại hỏi thăm sức khỏe.
Mẹ tôi đợi lâu quá nên quay qua hỏi con bạn tôi, dân Bà-Rịa (Parisienne), nói tiếng Tây như gió.
– Cháu rảnh tìm cho bác bài hát „One day when we were young“, bản tiếng Pháp nhé!
Dân Bà-Rịa cũng bó tay vì bài này cũ rích, xưa như trái đất, là một trong những bài điệu Valse được trình bày bởi nữ minh tinh Miliza Korjus trong phim The Great Waltz do MGM sản xuất năm 1938, tức là lúc ấy mẹ tôi mới … tròn một tuổi xuân.
Không nhằm nhò gì, con bạn tôi khoe:
– Bác ơi! Bài này phiên bản tiếng Việt là „Khúc hát thanh xuân“ đó bác!
Ngày ấy khi xuân ra đời
Một trời bình minh có lũ chim vui

Mẹ tôi vẫn ôm mối u hoài nhớ về thuở ngày ấy khi … mẹ tôi mới ra đời, phiên bản tiếng Pháp, bất di bất dịch.
Một con bạn khác (tôi có nhiều con bạn hơn thằng bạn) mò mẫm, lục lọi, tìm được lời dịch qua tiếng Pháp, hớn hở reo:
– Eureka!
Thế là chúng tôi thiên biến vạn hóa, „Ngày ấy khi xuân ra đời“ thì chúng tôi cũng cho lọt lòng bài „Chanson de jeunesse“, hay hơn cả bản gốc Miliza Korjus hát nhiều, vì cái giọng chim sơn ca của cô minh tinh màn bạc này ở tầng số siêu âm thanh, tôi nghe cứ như là … „Đỉnh gió hú“ í.

Sau khi kiểm duyệt bản quyền, mẹ tôi nhắn tin cho con bạn tôi:
– Hai câu tiếng Pháp bài „One Day …“ không biết bác nghe và viết lại có đúng không, nhưng hình như là:
Nos coeurs j‘ avais vingt ans
C’était un mois du printemps

Bỏ bu rồi, không thiên biến vạn hóa được, trí nhớ người già ai bảo „Mẹ ta trả nhớ về không“, thơ Đỗ Trung Quân:

Ngày xưa chào mẹ, ta đi
Mẹ ta thì khóc, ta đi thì cười
Mười năm rồi lại thêm mười
Ta về thì khóc, mẹ cười lạ không
Ông ai thế? Tôi chào ông
Mẹ ta trí nhớ về mênh mông rồi
Ông có gặp thằng con tôi
Hao hao … tôi nhớ … nó … người … như ông.
Mẹ ta trả nhớ về không
Trả trăm năm lại bụi hồng rồi đi

Cuối cùng thì Chanson de Jeunesse cũng „lên sóng“ với phụ đề Pháp ngữ để mẹ tôi có thể vi vu hát theo như hát Karaoke.

Tôi cũng giống mẹ tôi, trình độ Pháp văn của tôi cũng mấp mé ở hai câu của những bài hát tiếng Pháp thập niên 60-70.
Chắc bắt đầu từ hôm nay tôi phải chép lại các bài hát tiếng Pháp mình ưa thích và chuyển vào bộ nhớ của đứa con gái đáng yêu nhất trên đời này của tôi, để mai kia khi tôi nghêu ngao:
J’avais dessiné
sur le sable …

là hai câu đầu của bài Aline do Christophe trình bày 1965, thì đứa con gái đáng yêu nhất trên đời này của tôi không phải hỏi lại:

– Mẹ mà cũng biết vẽ trên cát à?

Thiên đường ngàn dặm

Hôm nay, vô tình xuống tầng hầm (bên Đức đa số nhà thường có tầng ở dưới tầng trệt gọi là „Keller“, thường là nơi để hệ thống lò sưởi, máy giặt, những két nước, đồ khô, đồ hộp, hoặc các thứ đồ dùng ít xài đến) thấy mấy cái va-li đóng bụi nằm xếp xó, tự dưng thèm „lê va-li“, không phải „les valises“ tiếng Pháp mà là … kéo va-li chạy xềnh xệch ở phi trường để kịp bắt chuyến bay sắp cất cánh.
Bấm ngón tay thì thấy đại dịch Vũ Hán đã trói chân tôi hơn hai năm nay rồi.
Chợt nhớ bài Paradise của Meduza:

Oh, my, my, my
There’s a thousand miles between you and I
Oh, my, my, my (my, my, my)
Just a thousand miles between me and paradise

We’re all scared to fly, still we try
Learn to be brave, see the other side
Won’t you lead me there? Have no fear
Close your eyes, find paradise

Ôi, hỡi ôi,
Thiên đường ngàn dặm cách xa
Em đưa tay với ngỡ là thiên thu
Sợ gì mà chẳng phiêu lưu
Thiên đường ngàn dặm, phù du cuộc đời


Trong bài Paradise, ban tam ca Meduza đã thành công khi lồng một giai điệu gợi lên sự khao khát tìm thấy thiên đường xa diệu vợi:

Have no fear
Close your eyes, find paradise
Đừng sợ hãi
Hãy khép mắt lại, tìm thiên đường ước mơ


Meduza để thính giả tự chọn định nghĩa cho thiên đường của mình, nó có thể là một người, một địa điểm, hoặc chỉ là một ý tưởng tuyệt đẹp về một điều gì đó. Vì vậy, ai cũng có thể cảm nhận được giai điệu của bài hát với nội dung sâu sắc nhưng dùng từ đơn giản, vần điệu nhịp nhàng.

Ai cũng ước mơ tìm thấy thiên đường của mình. Tôi cũng vậy, nên tôi đã nghêu ngao hát bài Paradise suốt ngày chủ nhật hôm nay. Và tôi đã tìm thấy thiên đường của mình:

When the dark has gone, the morning’s won
We’re gonna feel something different
It will set you free, if you just tell me
Every secret, I’ll listen


C’était mon rêve, c’était Gérard

Người Việt có một thú tiêu khiển rất … Á châu là … hát Karaoke mỗi khi có hội họp bạn bè.

Mùa dịch, hết nước này ra lệnh giới nghiêm, nước kia „nội bất xuất, ngoại bất nhập“, nước nọ hò hét yêu cầu chích ngừa chống cúm v.v. Tức là chấm dứt luôn màn Party ăn uống, chè chén, ca hát. Không tụ tập được thì ta hát ở nhà một mình rồi thảy lên „phơi“ (Facebook) cho bạn bè thưởng thức. Cũng có cái hay là chỉ có „Ngón-Cái-Giơ-Lên“ (like) chứ không có những „Ánh-Mắt-Kém-Thiện-Cảm“ ra vẻ dè bỉu, chê bai.

Trong những bài hát „ca ra là ô kê“ đó có bài „Sonia“ của Patrick Duvet do một người bạn từ thủ đô ánh sáng mới thảy lên „phơi“, còn ướt át, chưa khô, một trong những bài hát tôi yêu chuộng nhất thuở thập niên 70.
Hồi đó thích Sonia vì điệu nhạc nhịp nhàng, dễ hát theo. Bây giờ sang đây, thấm thía thế nào là „le vent froid de sa steppe natale“ (gió lạnh từ thảo nguyên quê hương em), nghe đứa con gái đáng yêu nhất trên đời này của tôi mỗi lần hè đến lại gào lên „Nóng quá!“, mới thấy lời tự tình của Patrick Duvet thật là đẹp.

Elle était venue comme une étoile
Pareille à celle des nuits de mai
Le vent froid de sa steppe natale
La suivait comme une mère
Une mère

C’était mon rêve, c’était Sonia
C’était l’amour qui venait du froid
Était-ce un songe que j’ai inventé
Pour un été?

C’était mon rêve, c’était Sonia
C’était l’amour qui venait du froid
Son cœur de cendres a brûlé mes doigts
Encore j’en tremble

Elle n’avait pu se faire à l’idée
Que mon pays fait parfois l’été
Au doux soleil des mille ciels bleus
Je devais lui allumer
Un grand feu

Em đã đến như một vì sao sáng
Của những đêm tháng Năm
Gió lạnh từ thảo nguyên quê hương em
Quyện bước chân như vòng tay người mẹ

Sonia hỡi, em chính là giấc mơ của anh
Là tình yêu đến từ giá lạnh
Em có phải là giấc mơ anh hằng ao ước
Cho một mùa hè oi bức
Sonia hỡi, em chính là giấc mơ của anh
Là tình yêu đến từ giá lạnh
Trái tim tro tàn của em làm cháy bỏng ngón tay anh
Làm run rẩy tình anh

Có lẽ em không hề tưởng tượng được
Rằng quê hương anh có cả mùa hạ
Trong ánh nắng dịu dàng của trời hè xanh ngát
Anh đã đốt cho em ngọn lửa tình nồng cháy

Nữ ca sĩ Dalida có trình diễn bài này, nhưng đổi thành „Illia“ là tên dành cho con trai.
Tôi cũng bắt chước Dalida, ném bông hồng „bis, bis“ (nữa đi, nữa đi) lên sân „phơi“ nhờ người bạn „đổi hệ“ cho bài hát mà tôi yêu chuộng nhất thuở thập niên 70.